Cây hoa trạng nguyên
Hoa trạng nguyên có xuất xứ từ Mexico và vùng Trung Mỹ. Cây cao trên 1m , phân cành nhánh nhiều. Lá ở thân dạng bầu dài , chia thùy hay có răng rộng , cuống mập; lá màu xanh đậm , bóng , gân nổi rõ. Lá bao quanh cụm hoa có màu đỏ chói ( hoàn toàn đỏ hay chỉ đỏ 1 phần lớn ...
Hoa trạng nguyên có xuất xứ từ Mexico và vùng Trung Mỹ. Cây cao trên 1m , phân cành nhánh nhiều. Lá ở thân dạng bầu dài , chia thùy hay có răng rộng , cuống mập; lá màu xanh đậm , bóng , gân nổi rõ. Lá bao quanh cụm hoa có màu đỏ chói ( hoàn toàn đỏ hay chỉ đỏ 1 phần lớn phía gốc , phần đỉnh vẫn màu xanh; có chủng lá bao quanh cụm hoa màu trắng ngà , vàng lợt , hồng , vân hồng , cam , tím ... và xoắn ). Chén hoa màu xanh nhạt , có một tuyến lớn màu vàng; quả nang tròn.
1. Chọn giống
Như tất cả mọi loại hoa khác việc chọn giống rất quan trọng có tác động đến chất lượng khi hoa trưởng thành và thu hoạch.
1.1 .Chuẩn bị cây con
Khác với các loại hoa trồng trong chậu khác, trạng nguyên ra hoa không phụ thuộc vào thời khắc trồng mà phụ thuộc vào độ dài thời kì chiếu sáng trong ngày. Trong điều kiện bình thường, thời khắc trạng nguyên bắt đầu có mầm hoa diễn ra vào khoảng giữa của tháng 10 dương lịch (khi thời kì chiếu sáng trong ngày < 11h 45 phút, kích cỡ của các chậu hoa to hay nhỏ phụ thuộc vào thời gian trồng dài hay thời gian trồng ngắn, màu sắc, độ bền của hoa tùy thuộc vào tiến trình chăm sóc, dinh dưỡng.
Điều kiện quan trọng số 1 quyết định sự thành bại của việc trồng hoa trạng nguyên là giá thể trồng. Giá thể phải có độ thoáng, giữ ẩm, giữ phân tốt, pH từ 6- 6, 5. Giá thể thường được trộn theo tỷ lệ 1/3 xơ dừa + 1/3 rêu (giá thể trồng lan hồ điệp) + 1/3 bọt xốp.
Hoa trạng nguyên được trồng từ cây con nuôi cấy mô hoặc nhân giống bằng ngọn của cây mẹ . Nếu sản xuất ở quy mô lớn cây giống được sử dụng là cây nuôi cấy mô được nhập về từ Quảng Châu - Trung Quốc vào tháng 6 dương lịch - Đây cũng chính là nguồn cây mẹ để phục vụ cho công tác nhân giống các thế hệ hoa tiếp theo.
Tiêu chuẩn cây mô: cây cao 7- 10cm, có 4-5 lá, thân cây có màu đỏ tím, lá to, dày xanh đậm.
Cây con sau khi nhập về sẽ trồng trong chậu đã
được để sẵn giá thể sẵn và được đặt trong hệ thống nhà lưới có lắp đặt hệ thống lưới cắt nắng với độ chắn sáng 30%.
Lưu ý: chậu cây được xếp thẳng hàng thuận tiện cho việc chăm sóc , theo dõi , chuyển cây ( dãn cây khi tán cây lớn dần ).
Hàng ngày tưới nước loại bỏ lá vàng , các chậu cây bị chết. Cây mô sau khi trồng được 10- 15 ngày , cây có 7- 8 lá tiến hành cắt ngọn để nhân giống các thế hệ tiếp theo.
1.2 .Kỹ thuật cắt ngọn: dùng dao bào nhỏ cắt ngang đường kính thân cây (để chừa lại trên cây mẹ 3-4 lá để cây mẹ tiếp tục sinh trưởng). Ngọn cây sau khi cắt sẽ được nhúng ngay vào dung dịch Benlate 1% sau thời gian ấy vớt ngay đem giâm trong khay nhựa đã được để sẵn giá thể đặt trên các giá đỡ trong hệ thống nhà lưới cắt nắng 50%. Trước khi cắm cây vào giá thể, mỗi ngọn sẽ được chấm nhẹ một lớp bột để kích thích ra rễ, một mặt có hiệu quả làm lành vết thương của cây một mặt khác thúc đẩy nhanh quá trình tạo callus làm rễ mới.
Chăm sóc: hàng ngày tiến hành phun mù đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm cho quá trình hình thành rễ diễn ra thuận lợi. Sau khoảng 7 ngày lá mới mọc, cũng chính là thời khắc rễ mới hình thành , 5- 7 ngày sau đưa cây con có đầy đủ tất cả các bộ phận cần thiết ra trồng vào chậu.
2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
2.1. Kỹ thuật trồng
Trồng trạng nguyên phải trồng nổi, cổ rễ phải cao bằng so với mặt đất, không nên trồng sâu cây vì cây sẽ phát triển chậm hay bị thối thân.
Trồng xong tưới đẫm nước, nếu cây bị đổ ta dựng lại và bổ sung giá thể vào gốc cây
trồng cấy mô ban đầu, con thế hệ 1 và các thế hệ tiếp sau na ná nhau. Khi cây có 7- 8 lá tiến hành cắt ngọn để cây bắt đầu phân cành. Trong sản xuất hoa trạng nguyên việc tỉa cành tạo tán là một thao tác kỹ thuật quan trọng nhằm đáp ứng tốt yêu cầu của người dùng. Số lượng cành/ cây thường từ: 5 , 7 hoặc 9 cành. Khi số lượng cành/cây dưới 3 cành/cây cần tiến hành bấm ngọn để cây nảy nhiều chồi mới , sau thời gian ấy tùy thuộc vào yêu cầu của người mua tiến hành tỉa nhánh và tạo tán cho chậu cây.
Phần ngọn cắt đi tiếp tục sử dụng nhân giống thế hệ thứ 2.
Lưu ý: Đối với việc sử dụng nhân giống trạng nguyên bằng biện phương pháp giâm ngọn từ cấy mô chỉ nên sử dụng đến thế hệ thứ 3, nếu tiếp tục nhân giống các thế hệ tiếp theo sẽ dẫn đến hiện tượng thoái hóa cây con như: tích lũy mầm bệnh , cây sinh trường kém…
2.2. Kỹ thuật tưới nước
Đối với trạng nguyên không nên tưới phun mạnh lên tuốt nhà lưới trồng hoa sẽ làm đất và vi sinh vật có hại bắn lên cây, gây hại cho cây. Do đó nên nắp đặt hệ thống dây, cần tưới để tưới đến từng chậu. Cây trạng nguyên không ưa nhiều nước vì vậy 2 – 3 ngày tưới 1 lần tuỳ theo hoàn cảnh thời tiết.
2.3. Kỹ thuật bón phân
Hoa trạng nguyên rất nhạy cảm với phân bón , bón phân càng đầy đủ hoa càng đẹp , màu sắc đậm , lâu tàn. Sử dụng loại phân NPK tan tỷ lệ 20:20:20 bón cho cây. Định kỳ 1 tháng bón 1 lần với lượng pha loãng 5kg/ thùng 220 lít với nước và tưới cho cây.
Giống trạng nguyên lùn trồng chậu rất nhạy cảm với các điều kiện ngoại cảnh, trong quá trình chăm sóc chế độ tưới nước, phân bón phải bắt buộc tuân thủ nghiêm ngặt. Ngoài phân bón qua rễ, dinh dưỡng cung cấp cho cây sẽ được bổ sung qua lá. Cây con sau khi trồng đến khi kết thúc giai đoạn định ảnh tạo tán, định kỳ 1 tuần/lần pha loãng phân bón lá loại 30:10:10 phun lên bề mặt của lá cây, pha một lượng 300g/thùng 220L. Khi cây trồng đã tạo được số cành nhánh phù hợp, tiến hành thay thế loại phân 30:10:10 sang loại phân có hàm lượng NPK: 20:20:20. Khi trạng nguyên bắt đầu có mầm hoa (lá non mới ra có tía đỏ) tiến hành chuyển sang loại phân có hàm lượng NPK: 10:30:30.
3. Chăm sóc khi cây đã ra hoa
Giảm lượng nước tưới sau khi hoa tàn, để cây đi vào thời kì ngủ nghỉ. Suốt thời kì này, cây có thể chịu được nhiệt độ thấp nhưng không thấp quá 10 0C.
Khi thời tiết ấm hơn vào cuối mùa xuân, ta thay chậu cho cây. Trong thời kì thay chậu cần để cây trong bóng mát. Sau khi ra hoa cây thường trơ thân và cành. Ta cũng tiến hành cắt tỉa cành trong giai đoạn này để tạo hình cho cây. Giữ cây thấp lùn và ngăn lại trong một giới hạn nhất định phát triển của cây bằng cách bấm ngọn những mầm mới nhú ra cho đến giữa tháng 8.
Tưới nước cho cây (pha với 2 muỗng phân bón NPK 16-12-8-11+TE cho 1 lít nước) 2 tuần một lần trong suốt mùa hè. Cây trạng nguyên rất nhạy cảm với thời tiết lạnh và sương giá nên đưa cây vào nhà khi thời tiết chuyển lạnh.
Trong mùa hè cây bắt đầu đâm những chồi mới. Khi chồi dài khoảng 7 , 5 cm – 12.5 cm , ta cắt chồi đem giâm vào chậu cát ẩm đã tiệt trùng.
Trạng nguyên có phản ứng với chu kì ánh sáng. Điều kiện để cây ra hoa là mỗi ngày tối thiểu 12 h cây phải để trong bóng tối. Từ 1 tháng 10, ta dùng hộp bao kín cây tờ 5 h chiều cho đến 8 giờ sáng hoặc nhiều hơn để cây tan rã mầm hoa. Chỉ cần 5 phút chiều sáng với bóng đèn 60 oát trong đêm thì quá trình ra hoa chậm lại 2 tuần. Trong suốt thời kì này cần tưới nước và bón phân đầy đủ (2 muỗng phân bón (NPK 12-12-17-9+TE) cho 1 lít nước), che sáng đến khi màu hoa bắt đầu hiện ra ở chóp lá. Ví như các điều kiện trên được đảm bảo thì cây sẽ ra hoa bắt đầu từ tuần thứ ba của tháng 11.
Các bệnh thường gặp trên cây hoa trạng nguyên
1. Sâu hại
+ Nhóm sâu ăn lá ( sâu xanh, sâu khoang, sâu xám ) : Sâu tuổi nhỏ ăn phần thịt lá để lại lớp biểu bì ở phía trên. Sâu tuổi lớn ăn lá non, ngọn non, măng non. Sử dụng: Supracide 40 ND 10 –15 ml/bình 8 lít, Pegasus 500 SC 7 – 10 ml/bình 8 lít, Ofatox 40 EC 8 – 10 ml/bình 8 lít.
+ Nhện hại ( nhện đỏ hai chấm, nhện trắng và một số loại nhện khác ) : Nhện châm vào lá chỗ bị hại gây nên vết chấm màu nâu vàng nhỏ. Khi bị hại nặng lá loang nổ màu vàng, nâu, biến dạng cong queo , lá màu nâu vàng , hoa lệch hoặc bị dị hình, hoa tàn và thối. Các loại thuốc phòng trừ là: Pegesus 500 EC 8 –10 ml/ bình 8 lít , Mitac 20 ND 30 – 40 ml/bình 8 lít , ortus 5 SC 10 ml/bình 8 lít , Vimite 10 ND 10 –15 ml/ bình 8 lít...
+ Rệp nhảy : Rệp nhảy gây hại rất tai hại cho trạng nguyên. Rệp nhảy có miệng chích hút , hút dịch lá và nụ non. Cây bị rệp hại , sinh trưởng chậm , lá cong lại , trên lá có nhiều chất tiết dính , màu nâu đen , có tác động đến quang hợp , bị nặng , lá sẽ bị chết khô. Sử dụng : Supracide 40 ND 10 - 15ml / bình 8 lít; Polytrin P- 440 EC 15- 20 ml/ bình 8 lít; Ofatox 440 EC 8- 10 ml / bình 8 lít.
+ Bọ trĩ: Sâu non và trưởng thành chích hút dịch lá cây , cây bị hại nặng còi cọc không phát triển. Phòng trừ: Trước khi trồng vệ sinh trong nhà lưới và ngoài nhà lưới , nhặt sạch cỏ dại , nhặt bỏ lá già. Khi phát hiện thấy triệu chứng bệnh dùng một trong các loại thuốc hoá học sau: Bassa 50 EC 15 -20ml/ bình 8 lít , Match50 ND 10ml/ bình 8 lít , Suprathion 40 EC 15- 20ml/ bình 8 lít ….
2. Bệnh hại
+ Bệnh thối gốc: Bệnh phát sinh nhiều do chế độ tưới nước tưới phân không hợp lý , giá thể thường xuyên có độ ẩm cao. Gốc cổ rễ bị thối có màu nâu , vỏ long ra , khi nhổ cây lên rễ trong đất tách khỏi. Phòng trừ: sử lý tốt giá thể trước khi trồng , sử dụng một số loại thuốc hoá học: Benlate C 15- 20g/bình 8lít , Rhidomil MZ 72WP 20 -25 g/ bình 8 lít , Validamycin 50 SC 10 - 20ml/ bình…
+ Bệnh đốm lá: Vết bệnh là những hình tròn nhỏ hoặc bất định , màu nâu nhạt , nâu đen , nằm rải rác ở phiến lá dọc đường gân lá , ở mép lá. Bệnh lan từ lá phía dưới lên lá trên. Sử dụng các loại thuốc sau đây để phòng trừ: Anvil 5SC 10 –15 ml/bình 8 lít; Tospin M 70 NP 8 –10 g/bình 8 lít; Vimonyl 72 BTN 25 –30 g/bình 8 lít.
+ Bệnh phấn trắng : Vết bệnh dạng bột phấn màu trắng xám , mặt dưới lá mô bệnh chuyển màu vàng nhạt , bệnh hại lá là chủ yếu ngoài ra còn hại trên thân , cành hoa làm lá nhanh tàn , thối nụ , hoa nhỏ , xấu. Dùng các loại thuốc sau: Ridomil 500 SC 5 – 8ml/bình 8 lít , Score 250 ND 10 15 ml/bình 8 lít , New Kausan 16 , 6 BTN 10 15 g/bình 8 lít nước.
+ Bệnh héo xanh vi khuẩn: Vi khuẩn tác động vào bộ phận cội rễ , vết bệnh màu trắng đục ủng nước , cây bị bệnh héo xanh , thường héo từ lá gốc lên trên , bẻ ngang cuống lá có bí mạch thâm đen. Sử dụng các loại thuốc sau để phòng trừ: VibenC 50 BTN 20 – 25 g/ bình 8 lít , Ner Kasusan 16 , 6 BTN 10 – 15 g/ bình 8 lít Streptomicin 100 150 ppm.