24/05/2018, 23:00

Cấu trúc hệ điều hành truyền thống

HĐH là bộ phần mềm lớn có kích thước từ hàng nghỡn tới hàng triệu dũng mó lệnh, cho nờn khi thi hành cần thiết phải kiến trỳc phần mềm HĐH từ các môđun dễ dàng quản lý (phự hợp với phương pháp chung phát triển phần mềm). Kỳ vọng một kết quả thiết kế là cung ...

HĐH là bộ phần mềm lớn có kích thước từ hàng nghỡn tới hàng triệu dũng mó lệnh, cho nờn khi thi hành cần thiết phải kiến trỳc phần mềm HĐH từ các môđun dễ dàng quản lý (phự hợp với phương pháp chung phát triển phần mềm). Kỳ vọng một kết quả thiết kế là cung cấp các giao diện được xác định tường minh giữa các môđun và cách đặt các ràng buộc cho tương tác môđun. Hai cách tiếp cận truyền thống thông dụng phân hoạch các môđun là phân hoạch ngang và phân hoạch dọc. Phân hoạch dọc dựa trên khái niệm mức, theo đó phân chia các môđun thành nhóm theo các mức khác nhau với ràng buộc là chỉ cho phép tương tác giữa các môđun thuộc hai mức liền kề. Đây là giao diện một vào - một ra giữa các mức. Các môđun trong từng mức (phân hoạch ngang) lại được tổ chức thành các thành phần lớn rời rạc nhau, mỗi thành phần như thế lại có thể được tinh chế tiếp theo tổ hợp phân hoạch ngang hoặc dọc (hỡnh 1.4). Kiểu điển hỡnh của mụđun là tập dũng lệnh thi hành một dịch vụ hệ thống riờng biệt. Trong một hệ thống hướng đối tượng, các môđun cần được thi hành như một đối tượng với các thao tác (hoàn toàn xác định) trên mỗi đối tượng dịch vụ thành phần. Môđun hóa dựa trên đối tượng là tốt hơn so với mó húa. Mọi tài nguyờn, bao gồm cả file và QT, cần được tiếp cận như đối tượng dữ liệu mà thể hiện vật lý của chúng phải được che giấu bằng các cấu trúc dữ liệu trừu tượng. Hoạt động (thực hiện) của môđun được giới hạn bằng một tập các thao tác và luật hỡnh thức gỏn cho đối tượng. Môđun hướng đối tượng cung cấp hàng loạt lợi thế, trong đó có tính đồng nhất truy nhập và bảo vệ. Vỡ đồng nhất, chúng dễ dàng biến đổi và do đó làm tăng tính khả chuyển của hệ thống.

Tính khả chuyển của HĐH cũn tăng lên khi tách các mó phụ thuộc-mỏy từ hệ thống. Đa phần các phần mềm HĐH (các dịch vụ hệ thống) là độc lập phần cứng. Từ đó, hệ thống cần được cấu trúc theo cách mà phần phụ thuộc-máy được giữ ở mức tối thiểu nhấttỏch rời khỏi cỏc dịch vụ hệ thống. Cách tiếp cận nhân tối thiểu này làm giảm bớt độ phức tạp về tính khả chuyển hệ thống từ kiểu kiến trúc máy tính này sang kiểu kiến trúc máy tính khác vỡ chỉ cú nhõn mới phải viết lại. Cỏc chức năng điển hỡnh được thi hành trong nhân tối thiểu bao gồm: tính đa thành phần của các bộ xử lý với hỗ trợ đa chương trỡnh, kiểm soỏt ngắt, điều khiển thiết bị, (dịch vụ) nguyên thuỷ đồng bộ QT (ĐBQT), các phương tiện truyền thông liên QT (TTLQT, tiếng Anh Interprocess Communication, IPC). Cấu trúc nhân thường nguyờn khối theo nghĩa khụng cũn phõn hoạch ngang hoặc dọc được nữa mà chỉ là môđun hóa theo mó. Cấu trỳc này đạt được do nhân đó được tối thiểu nhất. Triết lý thiết kế này là hiệu quả cho phộp chỳ ý tới cỏch liờn kết nhõn hơn là cấu trỳc nhõn. Hỡnh 1.4 thể hiện cỏc khỏi niệm mụđun hóa và cấu trúc hóa với một số thành phần trong mỗi mức của phần mềm hệ thống.

Cấu trúc HĐH được nâng cao theo mô hỡnh Client/Server. Mụ hỡnh Client/Server là một mụ hỡnh lập trỡnh khuụn mẫu. Theo mụ hỡnh này, lời gọi hệ thống từ các chương trỡnh ứng dụng yờu cầu cỏc dịch vụ HĐH giống như yêu cầu QT khách trực tiếp tới QT phục vụ. Chúng được thi hành gián tiếp thông qua nhân HĐH. Lời gọi hệ thống chia xẻ một lối vào nhất quán tới hệ thống. Cơ chế này làm đơn giản hóa tương tác tới HĐH và cho phép người thiết kế hệ thống chuyển thêm nhiều dịch vụ hệ thống tới mức cao hơn (trong nhiều trường hợp tới không gian QT người dùng) và kết quả được nhân nhỏ hơn và dễ quản lý hơn. Mô hỡnh Client/Server là cỏch tự nhiờn mô tả các tương tác giữa các QT trong hệ phân tán trong khi chuyển thông điệp (một khái niệm quan trọng) chỉ có nghĩa chuyển vận dữ liệu trong các thực thể truyền thông.

Sự phân biệt giữa chương trỡnh ứng dụng với chương trỡnh hệ thống thường mơ hồ. Chương trỡnh trong nhõn và dịch vụ hệ thống là phần mềm hệ thống (xem hỡnh 1.4). Tuy nhiờn, theo một quan niệm khỏc (như đó được trỡnh bày trong hỡnh 1.3), chương trỡnh hệ thống cũn bao gồm cả trỡnh biờn dịch, trỡnh soạn thảo hệ thống, trỡnh thụng dịch [3]. Chớnh bởi lý do đó mà người viết trỡnh biờn dịch cũng tự coi họ là những người lập trỡnh hệ thống. Tuy nhiờn, trỡnh biờn dịch theo quan điểm của HĐH được xem là một ứng dụng. Mặt khác, phần mềm cơ sở dữ liệu là một ứng dụng đối với trỡnh biờn dịch hoặc một ngụn ngữ, đến lượt mỡnh nú lại là chương trỡnh hệ thống đối với người dùng. Kiến trúc này có thể phát triển thêm một vài mức. Người dùng nhỡn hệ thống qua một hệ thống con được đặc trưng bằng các dịch vụ cung cấp cho họ. Mối quan hệ giữa chương trỡnh hệ thống và chương trỡnh ứng dụng là gần gũi.

Hệ thống con và vi nhân

Nhân tối thiểu vạn năng mà dựa trên nó, các dịch vụ HĐH chuẩn được thi hành nhằm hỗ trợ các hệ thống con hướng ứng dụng được gọi là vi nhân. Kiến trúc vi nhân bao gồm một nhân tối thiểu phụ thuộc nền phần cứng và một tập các thi hành độc lập phần cứng (dịch vụ hệ thống) bằng Bộ giao diện trỡnh ứng dụng (API: Application Program Interface) hoàn toàn xỏc định. Điều ý nghĩa của khái niệm vi nhân ở chỗ nó cung cấp một môi trường chứa các điều kiện cần và đủ để cấu trúc HĐH hoặc hệ thống con đáp ứng nhu cầu bất kỳ với ít công sức nhất. Nhân, mặc dù phụ thuộc phần cứng, nhưng được cấu trúc với độ trừu tượng phần cứng để dễ dàng được ghi lại mó mỏy khi được mang chuyển tới một nền khác. Cấu trúc bổ sung này được gọi là Mức trừu tượng phần cứng (HAL: Hardware Abstraction Layer) hoặc Giao diện cung cấp dịch vụ (SPI: Service Provider Interface) khi được sử dụng trong mô đun phần mềm mức trên. Như trỡnh bày tại hỡnh 1.5 thỡ API cung cấp tớnh mở rộng cho cỏc ứng dụng mức cao cũn SPI (hoặc HAL) đề cao tính khả chuyển cho nền tảng mức thấp.

Các mức API và SPI Kiến trúc hệ thống Windows NT

Các dịch vụ hệ thống là đồng hạng môđun và đầy đủ vỡ vậy chỳng được dùng như một cơ chế để hỗ trợ lớp rộng lớn các ứng dụng. Người thiết kế phần mềm chỉ cần biết các giao diện chuẩn tới các môđun dịch vụ thi hành và có thể chọn một tập con của chúng theo đũi hỏi. Kiến trỳc như vậy rất thuyết phục vỡ tớnh mụđun hóa, dễ mang chuyển và khả năng tiếp thị (môđun thi hành có thể thuộc bản quyền của nhà cung cấp hệ thống khác). Ngành công nghiệp đó cú một vài cố gắng hướng tới một kiến trúc vi nhân chung, đáng kể nhất là Microkernel của IBM và Windows NT của Microsoft.

Windows NT được trỡnh bày trong hỡnh 1.6 như một ví dụ của kiến trúc vi nhân, trong kiến trúc này mỗi khách thấy máy tính theo một môi trường tính toán khác nhau (OS/2, Win32, POSIX) được biểu diễn bởi API trong hệ thống con. Mỗi hệ thống con có không gian địa chỉ lôgic riêng của mỡnh, cú thể được cô lập và bảo vệ đối với các hệ thống con khác. Lời gọi hệ thống con dựa trên API dịch vụ hệ thống và như vậy được thi hành một cách độc lập với việc thực hiện tại mức nhân và mức phần cứng. Như một chọn lựa, hệ thống con có thể tương tác gián tiếp với dịch vụ hệ thống qua hệ thống con Win32, hệ này hỗ trợ phương tiện lập trỡnh window. Kiến trỳc tại hỡnh vẽ đạt được mọi khái niệm kiến trúc hệ thống như đó thảo luận: mụđun hóa, phân mức, mô hỡnh Client/Server, mụ hỡnh đối tượng, và nhân tối thiểu. Hầu hết các HĐH hện đại theo đuổi triết lý thiết kế như vậy với một vài khác biệt nhỏ khi thi hành.

Các chức năng quản trị

HĐH có chức năng quản trị tài nguyên. Mỗi tài nguyên trong hệ thống máy tính nói chung thuộc vào một trong bốn lớp: Bộ xử lý/quỏ trỡnh, bộ nhớ, I/O và dữ liệu/file. Mô tả một cách tóm tắt các vấn đề cơ sở của HĐH truyền thống. Tóm tắt này như là những thông tin nền tảng cho thảo luận HĐH mạng, HĐH phân tán và hệ tự trị cộng tác.

- Quản trị Bộ xử lý/Quỏ trỡnh ở mức hệ thống thấp nhất là cung cấp ỏnh xạ (lập lịch: scheduling) cỏc bộ xử lý tới cỏc QT, hoặc ngược lại. Để thuận tiện cho việc mở rộng đa người dùng và đa bài toán (đa nhiệm), cần tới tính đa thành phần-không gian bộ nhớ (nơi đặt QT) và tính đa thành phần-thời gian các bộ xử lý (nơi QT thực hiện). Thi hành tính đa thành phần như vậy thông qua tính đa chương trỡnh và phõn chia thời gian được cơ chế kiểm soát ngắt đầy đủ hỗ trợ. Tại mức cao, việc thi hành là trong suốt tới các QT thực hiện đồng thời. Người dùng chỉ quan tâm tới việc phối hợp tương tác các QT đồng thời. Các tương tác đũi hỏi ĐBQT và TTLQT. Trong hơn hai chục năm trở lại đây, hàng loạt phương pháp ĐBQT được đề xuất nhằm giải quyết bài toán đồng bộ nhờ loại trừ ràng buộc và kết hợp trạng thái.

Hầu hết các tiếp cận cơ sở dùng lời gọi hệ thống đặc biệt thao tác trên các biến kiểu dữ liệu semaphore. Do được hệ thống hỗ trợ khả năng kết khối QT, các thao tác nguyên tử trên semaphore (yêu cầu tài nguyên P(s) / giải phóng tài nguyên V(s)) cho phép phối hợp các QT tương tác. Các tiếp cận khác (không dùng semaphore) gắn năng lực đồng bộ vào ngôn ngữ lập trỡnh nhờ hoặc là biến dạng cấu trỳc điều khiển (chẳng hạn, khoảng tới hạn có điều kiện - Condition Critical Region, ghi tắt CCR. Khái niệm cơ sở là khoảng tới hạn - Critical Region, ghi tắt là CR) hoặc là bổ sung kiểu dữ liệu trừu tượng mới (chẳng hạn, bộ giỏm sỏt - monitor). Ngoài ra, một cách thức ĐBQT khác dựa theo cách lệnh vào-ra, chẳng hạn Bộ cỏc quỏ trỡnh tuần tự truyền thụng (Communicating Sequential Processes: CSP). Đây là cách tiếp cận tổng quát hơn theo kiểu lời gọi thủ tục và dẫn dắt điểm hẹn (rendezvous) trong ngụn ngữ lập trỡnh Ada. Tiến thờm một bước mới, cho phép đặc tả dóy cỏc điều khiển thực hiện đồng thời trong một chương trỡnh mà khụng cần dựng cỏc nguyờn thủy đồng bộ một cách tường minh, như được thi hành trong biểu thức đường đi (Path Expression: PE). Người ta chỉ ra rằng, mọi tiếp cận được đề xuất cho bài toán đồng bộ có thể được thi hành với sự thỏa hiệp giữa hiệu quả và năng lực diễn tả lời giải bài toán. Các phương pháp đồng bộ truyền thống sẽ được mô tả sơ lược tại chương 3).

Các phương tiện TTLQT được phát triển song hành với ĐBQT. Trong HĐH tập trung, TTLQT xuyên qua chia xẻ bộ nhớ dường như là giải pháp dễ dàng. Tuy nhiên, chia xẻ bộ nhớ vi phạm giả thiết cơ bản là các QT không đồng bộ và nhỡn chung là khụng chia xẻ khụng gian địa chỉ chung. Lựa chọn cũn lại là truyền thụng thông qua chuyển thông điệp (ghi tắt CTĐ, message passing). ưu điểm của CTĐ do nó là một phần bản chất của hệ phân tán và như vậy có thể đưa việc phát triển HĐH tập trung thích hợp với việc phát triển hệ phân tán.

Điều rất có giá trị chính là mối quan hệ thân thiết giữa ĐBQT và truyền thông QT (TTQT). TTQT đũi hỏi một số giả thiết nền tảng từ ĐBQT, chẳng hạn như đồng bộ gửi và nhận dữ liệu. Với các dịch vụ nguyên thủy của truyền thông QT, cấu trúc đồng bộ mức cao có thể được thi hành chỉ dựa trên các TTQT nguyên thủy. Khởi đầu từ nguyên thủy đồng bộ và truyền thông cũng dẫn đến việc phát triển ngôn ngữ đồng thời: các ngôn ngữ cho phép đặc tả được QT đồng thời, đồng bộ và TTLQT. Ngôn ngữ đồng thời và đồng bộ/truyền thông trong hệ phân tán được bàn luận tương ứng trong chương 3 và chương 4.

Cùng với ĐBQT và TTQT, quản trị QT cũn cú chức năng lập lịch. Quá trỡnh đang sẵn sàng (ready) hoặc ở dũng xếp hàng (waiting sequence) cần được lập lịch lại để thực hiện khi tài nguyên đó sẵn sàng hoặc điều kiện nào đó được thỏa món. Rất nhiều chiến lược được dùng nhằm đạt được hàm mục tiêu, chẳng hạn tối thiểu thời gian chuyển lịch hoặc tối đa thông lượng hệ thống (system throughput). Lập lịch bài toỏn (task, hoặc quỏ trỡnh - process) cho mỏy đơn-đa xử lý là một vấn đề nghiên cứu thao tác cổ điển. ứng dụng lập lịch bài toán vào hệ phân tán là phức tạp do tồn tại đa máy tính và tổng phí (overhead) truyền thông buộc phải tính đến trong lập lịch. Tồn tại hai kiểu lập lịch: Lập lịch QT tĩnh dựa trờn mụ hỡnh quan hệ đi trước và chia xẻ tải động quá trỡnh dựa trờn mụ hỡnh quan hệ phụ thuộc quỏ trỡnh. Quan hệ đi trước biểu diễn các QT buộc phải đồng bộ như thế nào, trong khi đó quan hệ phụ thuộc chỉ cho biết dấu hiệu tương tác giữa các QT. Hai kiểu lập lịch này biểu diễn độ hiểu biết khác nhau về mối tương tác giữa các QT trong đồng bộ và truyền thông. Lập lịch tĩnh, chia xẻ động và cân bằng tải được trỡnh bày trong chương 5.

-Quản trị thiết bị vào - ra là trỏch nhiệm chặt chẽ của hệ thống cỏc thiết bị gắn kết vật lý. Nhằm giảm bớt độ phức tạp khi thiết kế hệ thống theo tính phụ thuộc máy, kiến trúc hệ thống của bộ xử lý thường được tách hoàn toàn khỏi tính chi tiết thiết bị vào-ra. Bộ xử lý cung cấp một giao diện chung tới tất cả thiết bị và căn cứ theo giao diện chung đó, nhà chế tạo thiết bị vào-ra phát triển thiết bi điều khiển thiết bị vào-ra và trỡnh điều khiển phần mềm để tích hợp vào hệ thống. Theo hướng trừu tượng, các thiết bị vào-ra chỉ là bộ ghi nhớ: Một số cho phép đọc và ghi (chẳng hạn, đĩa từ), một số khác chỉ cho phép đọc (chẳng hạn, bàn phím) và một số khác nữa chỉ cho phép ghi (chẳng hạn, máy in). Theo quan điểm của HĐH, thích hợp nhất coi tất cả thiết bị vào-ra là file lụgic. File lụgic biểu diễn thiết bị vật lý được gọi là thiết bị ảo. Các QT chỉ thao tác trên các file và hệ thống chịu trách nhiệm diễn giải file này tới thiết bị vật lý.

Người ta sử dụng một số kỹ thuật nhằm tăng tốc thao tác vào-ra, đáng kể nhất là hai khỏi niệm spoolingbuffering. Spooling (như đó được giới thiệu tại trang 10) làm thuận tiện chia xẻ các thiết bị vào - ra, cũn buffer (bộ đệm) căn bản được dùng để dàn xếp sự khác nhau về tốc độ làm việc giữa thiết bị vào-ra chậm và bộ xử lý nhanh. Buffer có thể được thi hành ở nhiều mức phần mềm khác nhau, chẳng hạn như hệ thống file, trỡnh điều khiển thiết bị, và trong một số trường hợp ở ngay trong thiết bị điều khiển vào-ra. Hai thiết bị vào - ra quan trọng nhất là ổ đĩa và trạm cuối. Đĩa tốc độ cao và dung lượng rộng (vài trăm gigabytes) là rất thông dụng. Đĩa dung lượng cao đóng vai trũ đáng kể trong việc thiết kế phần mềm lớn. Trạm cuối bản đồ - bộ nhớ tạo nên sự thi hành việc hỗ trợ các cửa sổ (windows) tại trạm cuối. Cửa sổ được khởi hành như một bàn giao tiếp ảo (virtual console) đơn giản. Với các chức năng bổ sung như một giao diện người dùng đồ họa và các cửa sổ đa tương tác, windows được tiến hóa thành giao diện đang phát triển một cách thăng hoa đối với hệ thống con và sẽ trở thành một máy tính ảo như trường hợp HĐH Windows 95.

Một vấn đề đáng quan tâm liên quan tới quản trị vào-ra là bế tắc (deadlock). Bế tắc nảy sinh trong hệ thống do định vị sai tài nguyên khi có một tập QT không ưu tiên (nonpreemptable) mà mỗi từ chúng giữ tài nguyên lại đũi hỏi tài nguyờn từ QT trong tập đó, tạo ra một chu trỡnh xõu QT khụng thể thỏo rời. "Tài nguyờn" cú thể là thiết bị vật lý và (chung hơn) là các buffer và các điều kiện. Việc phũng ngừa, thoỏt ra, và phỏt hiện bế tắc đó được nghiên cứu rộng rói. Tuy nhiên, phát hiện và giải quyết bế tắc phân tán hiện vẫn đang là vấn đề mở.

-Quản lý bộ nhớ bao gồm việc phõn phối - phõn phối lại bộ nhớ và ánh xạ không gian chương trỡnh lụgic vào bộ nhớ vật lý. Mục tiờu căn bản là bảo đảm tận dụng cao bộ nhớ và cung cấp bộ nhớ ảo hỗ trợ chương trỡnh lớn, đặc biệt là các chương trỡnh cú kớch thước vượt kích thước bộ nhớ vật lý. Hầu hết hệ thống máy tính hiện nay đều sử dụng các kỹ thuật điều khiển trang (paging)/ điều khiển segment (segmentation) khi thi hành bộ nhớ ảo. Thi hành bộ nhớ ảo đũi hỏi phần cứng bổ sung, thường được gọi là đơn vị quản lý bộ nhớ (memory managment unit). Cả trang và segment đều là các cơ chế phân phối bộ nhớ rời rạc. Sự khác nhau chính giữa hai cơ chế này phân chương trỡnh theo trang vật lý và theo segment logic. HĐH hiện đại thi hành bộ nhớ ảo theo cơ chế tổ hợp hai cơ chế này. Do không phải tất cả các trang và segment đồng thời nằm trong bộ nhớ trong, nên cần điều tiết những chỉ dẫn tới dữ liệu và chỉ thị (lệnh) mới khi thực hiện một chương trỡnh. Nhiều thuật toỏn thay trang được đề xuất nhằm rút gọn tần số lỗi trang. Hiệu suất của chiến lược thay trang phụ thuộc mạnh vào cách thực hiện chương trỡnh tại khoảng thời gian đó cho bất kỳ. Định hướng không gian và thời gian được mô tả tổng quát trong chương trỡnh cú ảnh hưởng đáng kể khi chọn thuật toán thay trang.

Bộ nhớ ảo là giải pháp nhằm giải quyết sự khác nhau về kích thước và tốc độ giữa bộ nhớ đĩa chậm tương đối và bộ nhớ vật lý nhanh hơn. Tồn tại vấn đề tương tự khi bộ nhớ tốc độ cao (cache) được dùng như bộ đệm giữa bộ xử lý và bộ nhớ chớnh. Quỏ trỡnh buffer này chỉ đũi hỏi phải ỏnh xạ địa chỉ vật lý (được gọi là caching) mà thông thường được quan tâm theo hướng kiến trúc hơn là vấn đề của HĐH. Chọn lựa thuật toán thay trang, ảnh hưởng của cỡ trang và segment, ảnh hưởng của phân phối bộ nhớ, caching và liên kết cache là một số vấn đề của quản trị bộ nhớ.

Trong HĐH tập trung, bộ nhớ chia xẻ cho giá trị là tính đơn giản đối với truyền thông và tương tác QT. Nhiều thuật toán được phát triển cho bộ nhớ chia xẻ. Trong môi trường phân tán, hy vọng mô phỏng được hệ thống bộ nhớ chia xẻ trong khi không có bộ nhớ vật lý chia xẻ. Khỏi niệm bộ nhớ phõn tỏn này đưa ra một số câu hỏi về tính nhất quán và hiệu năng của chia xẻ dữ liệu là tương tự như chia xẻ file trong hệ thống file phân tán. Chương 6 trỡnh bày về hệ thống file phõn tỏn.

-Cuối cựng, song khụng kộm quan trọng, là quản trị file trong HĐH. File là một thực thể dữ liệu lôgic được thi hành trên các thiết bị nhớ, bao gồm đĩa, bộ nhớ, và thậm chí cả thiết bị vào-ra. Theo nghĩa trừu tượng nhất, mọi tính toán được xem như các quá trỡnh thao tỏc với file. Nếu bỏ đi hai thuật ngữ cơ bản là quá trỡnh và file, thỡ khụng cũn cú gỡ nghiờn cứu về HĐH. Do chúng ta chỉ giải quyết với quá trỡnh và file, mọi chủ đề tiếp theo đều liên quan đến chúng. Chúng ta không bàn luận nhiều về quản trị vào - ra và quản trị bộ nhớ vỡ điều đó chỉ thích hợp trong HĐH tập trung.

File cần được cấu trúc và thi hành trước khi được thao tác. Mỗi khi một cấu trúc file chung và thi hành của chúng được quyết định thỡ cỏc chức năng cơ sở để quản trị file là truy nhập file (file acces) và chia xẻ file. Thêm nữa vỡ mục tiờu hiệu quả, truy nhập file đũi hỏi cơ chế điều khiển bảo vệ (protection) và an toàn, và chia xẻ file đồng bộ hoặc điều khiển đồng thời. Khác với quản trị bộ nhớ và quản trị vào-ra, file được phân tán và nhân bản trên mạng hoặc môi trường phân tán. An toàn và điều khiển đồng thời file để thao tác file trở thành những vấn đề thiết thực hơn trong thiết kế HĐH phân tán so với HĐH tập trung. ứng dụng caching trong truy nhập file cũng phức tạp hơn, do thực tế file được cache trên nhiều máy. Một số chương, đoạn tiếp thảo luận về thi hành và điều khiển hệ thống file phân tán.

0