Cảm xúc của em khi đọc bài tho Đập đá ở Côn Lôn
Đề: Nêu cảm xúc và suy nghĩ của em sau khi đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan chu Trinh. Bài làm Đối với những thi nhân có tâm hồn ưu ái, văn chương là phương pháp để biểu lộ tâm tư và ý chí của mình. Trong khi lõ' bước hay trong cảnh gian nan, trước áp bức của cường ...
Đề: Nêu cảm xúc và suy nghĩ của em sau khi đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan chu Trinh.
Bài làm
Đối với những thi nhân có tâm hồn ưu ái, văn chương là phương pháp để biểu lộ tâm tư và ý chí của mình. Trong khi lõ' bước hay trong cảnh gian nan, trước áp bức của cường quyền hay trước cái nhìn xoi mói của kẻ địch, nhà tho không thể cởi mỏ' tất cả những gì u uẩn tận đáy lòng, đành gói ghém nó trong những vần thơ bóng bẩy. Đó là trường hợp của những trang anh hùng lõ' vận, của những chiến sĩ sa co' và cũng là trường hợp của nhà chí . sĩ Phan Châu Trinh khi muốn
mượn vài vần thơ để ký thác ít nhiều tâm huyết:
"Làm trai đứng giữa đật Côn Lôn.
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kể vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!".
Như chúng ta đã biết, thuở niên thiếu, cụ Phan Châu Trinh đã từng xuất chính làm đến chức thừa biện bộ Lễ. Nhưng rồi thấy triều đình mục nát, chính phủ bảo hộ bạc đãi dân Nam, cụ cương quyết từ quan, tìm bạn đồng chí để bàn mứu cứu nước. Cụ đã gọi Đề Thám ở Yên Thế, Phan Bội Châu ở Quảng Đông, cụ đã sát cánh hoạt động với các nhà ái quốc Trần Quý Cáp, Nguyễn Quyền, Lương Văn Can, Huỳnh Thúc Kháng v.v...
Năm 1908, các cuộc biểu tình chống thuế khởi dậy ở Quảng Nam rồi lan khắp các tỉnh miền Trung. Quan lại đổ tội cho cụ là người chủ xướng. Cụ bị bắt và bị Nam triều kết án tử hình. Nhò' báo chí và Hội Bảo trọ' Nhân quyền (Ligne des Droits de Homme et du Citoyen) can thiệp, cụ mới được giảm án và bị đày đi Côn Lôn.
Chính trong thời gian giam mình trong chốn tù đày, cụ Phan Tây Hồ cảm thân thế mình trong cảnh khổ hình, nên sáng tác bài Đập đá ở Côn Lôn để nói lên ý chí bất khuất của kẻ sĩ yêu nước.
Bài này cụ Phan viết theo lối tho' thất ngôn bát cú, bố cục theo quy tắc Đường luật:
1. Đề: Hoàn cảnh của kẻ bị lưu đày nơi đất Côn Lôn.
2. Thực: Hành động phạm nhân trong cái khổ hĩnh đập đá.
3. Luận: Thời gian và lao khổ không làm sờn chí kẻ làm trai.
4. Kết: Niềm tin tưởng mãnh liệt của kẻ muốn làm những việc phi thường.
Phàm là phạm nhân nơi Côn Đảo, ai cũng phải chịu lấy những khổ hình. Đập đá, đốn cây, đắp đường, khai rạch ... biết bao nhiêu
xương máu của tội nhân đã tô điểm thêm màu mỡ cho hải đảo - nơi tập trung những kẻ cần phải tách xa ra ngoài xã hội lương thiện.
Thật mỉa mai thay hai chữ "Thiện" và "Ác"! Kẻ yêu nước, thương dân bị coi là "Ác"; kẻ sâu dân, mọt nước được gọi là "Thiện". Là quốc sự phạm, cụ Phan đành mang lấy cái tội của kẻ ái quốc chân thành, nhận lấy tất cả mọi khố hình mà bạo quyền áp dụng trừng trị. Cụ cũng đi đập đá như bao nhiêu tội phạm khác. Khổ hình ấy đối với cụ có ý nghĩa khác với ý nghĩa đền tội. Ta hãy xem cụ khẳng khái tự vịnh:
"Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn.
Lừng lẫy làm cho lở núi non".
Lời thơ ẩn hai ý: một ý diễn tả hoàn cảnh phạm nhân trước khổ hình "đập đá", một ý diễn tảchí khí của trang hào kiệt trước những thử thách gian lao. Đối với bạo quyền, Côn Lôn là lò khổ sai, đập đá là một cực hình trừng phạt kẻ có tội. Đối với nhà chí sĩ, Côn Lôn là cái lò luyện rèn chí khí, đập đá là một hành động khắc phục gian khổ và chịu đựng.
Với cái quan niệm khác thường ấy, cụ đã giúp ta hình dung cử chỉ oai hùng của người đập đá.
"Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn".
Những nhát búa vang lên, núi dù kiên cố đến đâu cũng bị phá vỡ từng đống. Một cánh tay vung ra, đá dù cứng rắn thế mấy cũng bị phá vỡ từng hòn. Hình ảnh người đập đá nổi bật lên giữa khung cảnh núi rừng hùng vĩ. Thật là một vẻ đẹp uy nghi hùng tráng, tượng trưng cho sức mạnh và cần lao.
Hình ảnh đó lại làm ta liên tưởng đến hình ảnh nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân đang ra sức san bằng trở lực, phá tan những chướng ngại đã ngăn cản bước tiến của dân. Trở ngại chính là chế độ thực phong, chướng ngại chính là tinh thần bảo thủ của dân ta.
Nghĩ đến thân thế mình hiện tại, cụ lại viết:
"Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son".
Sành sỏi là những vật cứng rắn có thể chịu đựng những thử thách của không gian và thời gian. Tấm thân của nhà chí sĩ có khác gì thân sành sỏi? Cụ phải trải qua bao cảnh "lăn lóc", phải chịu dầu dãi bao cảnh nắng mưa, nhưng xuyên qua không gian và thời gian, cụ vẫn giữ tấm lòng son sắt đối với quê hương, dân tộc.
Hai câu thơ nêu lên hai yếu tố "thời gian" (tháng ngày) và "ngoại cảnh" (mưa nắng) có thể gây những tác dụng mạnh mẽ đến con người về phương diện tinh thần lẫn vật chất. Nhưng hai yếu tố kia đã trở thành bất lực trước "tấm thân sành sỏi" (vật chất) và "tấc dạ sắt son" (tinh thần) của con người yêu nước đầy tiết tháo và quả cảm.
Để biểu hiện một niềm tin mãnh liệt, cụ Tây Hồ ung dung kết
luận:
"Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!".
Mượn tích bà Nữ Oa, luyện đá ngũ sắc để vá trời, tác giả bày tỏ cái chí lớn của kẻ muốn làm những việc phi thường, mưu sự ích quốc lợi dân, gây được một công nghiệp nghìn thu cho đất nước. Ôm cái hoài bão to tát ấy, mang một niềm tin tưởng vô biên ở tương lai tươi đẹp, người anh hùng khi lỡ bước xem gian nan chỉ là sự con con.
Biết khinh thường gian nan, đó là hành động ngang tàng của những con người khí phách.
Xuyên qua bài Đập đá ở Côn Lôn ta thấy cụ Phan Tây Hồ muôn nói lên một tâm sự. Đó là tâm sự của một chiến sĩ sa cơ, vẫn ôm mộng một ngày mai quật khởi. Đó là tâm sự của một nhà chí sĩ, vì hoàn cảnh chịu giam mình nơi chốn tù đày, nhưng mộng hồn vẫn gởi về nơi đất tổ xa xôi. Đó là tâm sự của một đấng anh hùng đang thử thách với gian nan, kiên tâm khắc phục gian khổ và chịu đựng.
"Nước biếc, non xanh thương chăng nhẽ!
Gian nan xin hộ khách anh hùng".
(Côn Lôn tức cảnh)
Đó là tâm sự của người dân mất nước, muốn "sổ lồng tháo cũi", đem tự do về cho dân tộc, phá tan cùm xích của thực dân.
"Trường thử bách niên cung thóa mạ,
Bất tri hà nhật xuất lao lung".
(Tháng ngày uất hận đành cam,
SỔ lồng tháo củi biết làm sao đây?").
(Chí Thành Thông Thánh)
Tóm lại, bài thơ đã gói ghém tâm sự của một chiến sĩ bài phong phản thực, một chí sĩ ái quốc, một đấng anh hùng thất thế, một người dân mất nước đang ẩn nhẫn chịu mọi khổ hình để chờ ngày thực hiện những hoài bão lớn lao.
Ngoài tâm sự trên, bài thơ còn biểu lộ một ý chí. Trước uy lực của cường quyền mà không hề nao núng, không chút sợ hãi, cụ Phan đã thể hiện ý chí bất khuất của đấng trượng phu, đúng theo phương châm xử thế của Mạnh Tử: "Sĩ khả sát bất khả nhục, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Trước sự gian nan mà không hề oán thán, không chút nản lòng, cụ Phan đã thể hiện ý chí khắc phục gian khổ của đấng anh hùng đang lâm vào vận cùng thế bĩ. Thật là một bài học kiên nhẫn và chịu đựng quý giá, đáng làm gương cho hậu thế soi chung. Trước sự thử thách của thời gian và ngoại cảnh, cụ Phan vẫn giữ được ý chí sắt son đối với giang san, dân tộc. Lâm cảnh nguy biến, tấm lòng thiết thạch của cụ vẫn không dời đổi. Cụ lại biết vui trong cảnh buồn, phấn khởi trong cảnh khổ. Phải là một nhà ái quốc chân chính mới có được cái tinh thần tiêu biểu sáng suốt ấy.
Sau cùng, trước bao nhiêu trỏ' lực và chướng ngại, cụ Phan vẫn giữ được niềm tin tưởng ở tương lai. Đất Côn Lôn chưa phải là bước đường cùng. Sống giữa cảnh trời mây u ám, cụ vẫn nhìn thấy ánh sáng huy hoàng rực rỡ trên đất nước ngày mai. Và cụ nguyện đem hết tài ba che chở cho dãy giang san đang bị bủa vây sóng gió.
"Bốn mặt dẫy-dò oai sóng gió,
Một mình che chở tội non sông."
(Côn Lôn tức cảnh) .
Tóm lại, bao nhiêu ý chí trên có thể chung kết lại thành một ý chí duy nhất: đó là ý chí hào hùng của một con người yêu nước tích cực vậy.