25/05/2017, 00:56

Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 9

Đánh giá bài viết Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh Tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh ...

Đánh giá bài viết Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh Tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút. Một trong số đó là đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích Truyện Kiều, sách Ngữ ...

Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn tỉnh Hà Tĩnh

Tuyệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ mang những giá trị xã hội sâu sắc mà còn làm say lòng người đọc ở những đoạn thơ tả cảnh tuyệt bút. Một trong số đó là đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích Truyện Kiều, sách Ngữ văn 9, tập một – NXB Giáo dục, 2008).

Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm. Vào ngày Tết Thanh minh, chị em Thúy Kiều đi tảo mộ. Thiên nhiên và con người ngày xuân hiện lên tươi tắn, xinh đẹp đông vui nhộn nhịp dưới đôi mắt “xanh non biếc rờn” của những chàng trai, cô gái tuổi đôi tám.

Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng:

“ Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”…

Không gian mùa xuân được gợi nên bởi những hình ảnh những cánh én đang bay lượn rập rờn như thoi đưa. Sự mạnh mẽ, khỏe khắn của những nhịp cánh bay cho thấy rằng mùa xuân đang độ viên mãn tròn đầy nhất. Quả có vậy: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” có nghĩa là những ngày xuân tươi đẹp đã qua đi được sáu chục ngày rồi, như vậy bây giờ đang là thời điểm tháng ba.

Nền cảnh của bức tranh thiên nhiên được hoạ nên bởi màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải ra bao la: “Cỏ non xanh tận chân trời”, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn mềm mượt êm ái. Huống chi cái sắc ấy trải ra “tận chân trời” khiến ta như thấy cả một biển cỏ đang trải ra rập rờn, đẹp mắt. Có lẽ chính hình ảnh gợi cảm ấy đã gợi ý cho Hàn Mặc Tử hơn một thế kỉ sau viết nên câu thơ tuyệt bút này: “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Trên nền xanh tươi, trong trẻo ấy điểm xuyết sắc trắng tinh khôi của vài bông hoa lê. Chỉ là “vài bông” bởi những bông hoa lê đang thì chúm chím chưa muốn nở hết. Hoa như xuân thì người thiếu nữ còn đang e ấp trong ngày xuân. Chữ điểm có tác dụng gợi vẻ sinh động, hài hoà. ở đây, tác giả sử dụng bút pháp hội hoạ phương Đông, đó là bút pháp chấm phá.

Hai câu thơ tả thiên nhiên ngày xuân của Nguyễn Du có thể khiến ai đó liên tưởng đến hai câu thơ cổ của Trung Quốc: hương thơm của cỏ non, màu xanh mướt của cỏ tiếp nối với màu xanh ngọc của trời, cành lê có điểm một vài bông hoa. Nhưng cảnh trong hai câu thơ này đẹp mà tĩnh tại. Trong khi đó gam màu nền cho bức tranh mùa xuân trong hai câu thơ của Nguyễn Du là thảm cỏ non trải rộng tới tận chân trời. Trên cái màu xanh cùa cỏ non ấy điểm xuyết một vài bông lê trắng (câu thơ cổ Trung Quốc không nói tới màu sắc của hoa lê). Sắc trắng của hoa lê hoà hợp cùng màu xanh non mỡ màng của cỏ chính là nét riêng trong hai câu thơ của Nguyễn Du. Nói gợi được nhiều hơn về xuân: vừa mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống lại vừa khoáng đạt, trong trẻo, nhẹ nhàng và thanh khiết.

Thiên nhiên trong sáng, tươi tắn và đầy sức sống, con người cũng rộn ràng, nhộn nhịp để góp phần vào những chuyển biến kì diệu của đất trời.

Sáu câu thơ tiếp của bài thơ tái hiện phong tục tảo mộ (viếng mộ, sửa sang phần mộ của người thân) và du xuân (hội đạp thanh) trong tiết Thanh minh. Không khí rộn ràng của lễ hội mùa xuân được gợi lên bởi hàng loạt các từ ghép tính từ, danh từ, động từ: yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu, gần xa, nô nức. Chúng được đặt cạnh nhau dồn dập gợi nên không khí đông đúc, vui tươi sôi nổi. Đó không chỉ là không khí lễ hội mà còn mang đậm màu sắc tươi tắn, trẻ trung của tuổi trẻ:

“Gần xa nô nức yến anh

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

Dập dìu tài tử giai nhân

Ngựa xe như nước áo quần như nêm”.

Nhưng hội họp rồi hội phải tan. Sau những giây phút sôi nổi, chị em Thúy Kiều phải rời buổi du xuân trở về:

“Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về.

Bước lần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” …

Bên cạnh vẻ thanh thoát, dịu nhẹ của mùa xuân như ở những câu thơ trước, khung cảnh mùa xuân đến đây đã mang một sắc thái khác với bức tranh lễ hội rộn ràng, nhộn nhịp. Cảnh vật toát lên vẻ vương vấn khi cuộc du xuân đã hết. Các từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ vừa gợi tả sắc thái cảnh vật vừa gợi ra tâm trạng con người. Dường như có cái gì đó đang mơ hồ xâm lấn, cảnh vật đã nhuốm sắc thái vương vấn, man mác của tâm trạng con người, ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để mượn cảnh vật mà diễn tả những rung động tinh tế trong tâm hồn những người , thiếu nữ. Những từ láy được sử dụng trong đoạn thơ đểu là những từ láy có tính giảm nhẹ. “Tà tà” diễn tả bóng chiều đang từ từ nghiêng xuống; “thơ thẩn” lại diễn tả tâm trạng bâng khuâng dịu nhẹ không rõ nguyên nhân (nó gần với nỗi buồn “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” của Xuân Diệu sau này) “thanh thanh” vừa có ý nghĩa là sắc xanh nhẹ nhàng vừa có ý nghĩa là thanh thoát, thanh mảnh; từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng đồng thời diễn tả tâm trạng nao nao buồn và từ “nho nhỏ” gợi dáng nhỏ xinh xắn, vừa vặn với cảnh với tình. Khung cảnh thiên nhiên cũng theo đó mà nhỏ đi để phù hợp với tâm trạng con người: “ngọn tiểu khê” – dòng suối nhỏ, phong-cảnh thanh thoát, dịp cầu “nho nhỏ” lại nằm ở “cuối ghềnh” ở phía xa xa,… Cảnh và người như có sự tương liên để giao hòa trong bầu không khí bâng khuâng, lưu luyến, khe khẽ sầu lay. Có thể mớ hồ cảm nhận được cảnh vật đang tạo ra dự cảm về những sự việc sắp xảy ra.

Đoạn trích Cảnh ngày xuân có bố cục cân đối, hợp lí. Mặc dù không thật rõ ràng nhưng cũng có thể nói đến kết cấu ba phần: mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nguyễn Du đã cho thấy một nghệ thuật miêu tả thiên nhiên điêu luyện, sắc sảo. Trong đoạn trích, mặc dù chủ yếu là miêu tả cảnh ngày xuân nhưng vẫn thấy sự kết hợp với biểu cảm và tự sự (diễn biến cuộc tảo mộ, du xuân của chị em Thúy Kiều, dự báo sự việc sắp xảy ra).

“Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn thơ tả cảnh hay nhất trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đọc đoạn trích, người đọc không chỉ trầm trồ về bức tranh thiên nhiên trong sáng vô ngần mà còn cảm nhận được vẻ đẹp trong một lễ hội truyền thống đầy ý nghĩa của cha ông: tiết Thanh minh. Và qua đây, Nguyễn Du cũng thể hiện nét tài hoa trong việc dựng lên một bức tranh tả cảnh ngụ tình tinh tế,… Với những điều đó, “Cảnh ngày xuân” sẽ luôn sống lại trong lòng người yêu thơ vào mỗi dịp đầu năm khi chúa xuân về với đất trời.

Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 2

Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức họa về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thúy Kiều ? Đoạn thơ "Cảnh ngày xuân" gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu 56 của "Truyện Kiều" tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan tỏa, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.

Bốn câu thơ đầu, mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như "đưa thoi". Cánh én mùa xuân thân mật biết bao. Hai chữ "đưa thoi" rất gợi hình, gợi cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng; thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Câu thành ngữ – tục ngữ: "Thời gian thấm thoắt thoi đưa, như ngựa chạy, như nước chảy qua cầu" đã nhập vào hồn thơ Tố Như tự bao giờ ?

Sau cánh én "đưa thoi" là ánh xuân, là "thiều quang" của mùa xuân khi chín chục đã ngoài sáu mươi". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi sĩ xưa nay thật là hay và ý vị. Nào là "xuân hướng lão" (Ức Trai), nào là cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông. Còn là "xuân hồng" (Xuân Diệu), "mùa xuân chín" (Hàn Mặc Tử), v.v… Với Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng ba. "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi". Hai chữ "thiều quang" gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời .

Còn là sắc "xanh" mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như tấm thảm "tận chân trời". Là sắc "trắng" tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc khoe hương "một vài bông hoa”:

"Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa."

Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: "Phương thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa". Hai chữ "trắng điểm" là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa: bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bóng lê "trắng điểm". Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én "đưa thoi", là màu hồng của ánh thiều quang, là khát vọng mùa xuân ngây ngất, say đắm lòng người.

Cảnh mùa xuân là bức tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:

“Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,

Tháng giêng hai vút trời bay cánh én…"?

(Ý nghĩ mùa xuân)

Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội mùa xuân: "Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh" trong tiết tháng ba. Điệp ngữ; "lễ là… hội là…" gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra đã bao đời nay: “Tháng giêng là tháng ăn chơi- Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè” (Ca dao). Cảnh trảy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt. Trên các nẻo đường "gần xa" những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao "yến anh" trẩy hội trong niềm vui "nô nức", hồ hởi, giục giã. Có biết bao tài tử, giai nhân "dập dìu” vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập ngựa xe cuồn cuộn "như nước", áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt, đông vui trên các nẻo dường "như nêm". Các từ ngữ: "nô nức”, "dập dìu", các ẩn dụ so sánh (như nước, như nêm) đã gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và phong lưu:

"Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm."

Trong đám tài tử, giai nhân "gần xa" ấy, có ba chị em Kiều. Câu thơ "Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân” mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn, nó ẩn chứa bao nỗi niềm: chờ trông mong đợi, ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đã chuẩn bị, đã “sắm sửa"… Có biết bao “bóng hồng" xuất hiện trong đám tài tử giai nhân ấy ? Ai đã từng đi hội chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử… mới cảm thấy cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng, tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du đã nói đến.

Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Các từ ghép: "yến / anh", chị / em", "tài / tử", "giai / nhân" "ngựa / xe”, "áo/ quân" (danh từ); "gần / xa" , "nô/ nức", "sắm / sửa", "dập / dìu”(tính từ, động từ) được thi hào sử dụng chọn lọc tinh tế, làm sống lại cái không khí lễ hội mùa xuân, một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của phương Đông, của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta, và nếp sống "phong lưu” của chị em Kiều.

"Ngổn ngang / gò đống kéo lên.

Thoi vàng vó rắc / tro tiền giấy bay."

Đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trống lễ tảo mộ được Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và kẻ đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện trên những gò đống "ngổn ngang" trong lễ tảo mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử, giai nhân, và ba chị em Kiều không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao ao ước về tương lai hạnh phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về.

Thế sau hai trăm năm, ý nghĩ của mỗi chúng ta có ít nhiều đổi thay trước cảnh “thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay", nhưng giá trị nhân bản của vần thơ Nguyễn Du vẫn làm ta xúc động !

Sáu câu thư cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Kiều đi tảo mộ đang dần bước trở về nhà. Mặt trời đã “ tà tà" gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh:

“Tà tà, bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dan tay ra về”

Hội tan sao chẳng buồn ? Ngày tàn sao chẳng buồn ? Nhịp thơ chậm rãi. Nhịp sống như ngừng trôi. Tâm tình thì "thơ thẩn", cử chỉ thì "dan tay", nhịp chân thì "bước dần". Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: "lần xem"… đối với mọi cảnh vật. Tất cả đều nhỏ bé. Khe suối chỉ là "ngọn tiểu khê". Phong cảnh "thanh thanh". Dòng nước thì "nao nao" uốn quanh. Dịp cầu thì "nho nhỏ" bắc ngang ở cuối ghềnh. Cả một không gian êm đềm, vắng lặng. Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương. Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến, sẽ nhìn thấy ? Cặp mắt cứ “lần xem" gần xa:

"Bước dần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh."

Các từ láy tượng hình: "thanh thanh", "nao nao", "nho nhỏ,& gợi lên sự nhạt nhòa của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan, ngày tàn. Nỗi niềm man mác bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn của giai nhân đa tình, đa cảm.

Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không còn xa lạ nữa, vì ngọn tiểu khê ấy, dịp cầu nho nhỏ ấy là màu sắc đồng quê, là cảnh quê hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thư tả cảnh ngụ tình tuyệt tác.

Thi sĩ Xuân Diệu từng viết: "Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi". Trong “Thương nhớ mười hai", Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình mà phải thốt lên: "Mùa xuân của tôi… Cái mùa xuân thần thánh của tôi… Đẹp quá đi, mùa xuân ơi mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến…". Và chúng ta muốn nói thêm: "Đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu ! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa xuân, cảnh trẩy hội xuân trong “Truyện Kiều". Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng. Sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta.

Hỡi những nàng Kiều gần xa có nghe thấy tiếng nhạc vàng của chàng Kim Trọng trong ngày hội xuân đẹp từ xa đang vọng tới ?…

Cảm nhận về đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 3

Một cuộc du xuân – đây là sự kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ phong lưu và xuân sắc của Thúy Kiều. Cuộc du xuân mở đầu cho phần thứ nhất trong hệ thống ba biến cố thông thường của cốt truyện cổ điển: “Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ”. Chúng ta sẽ bắt gặp ở đoạn thơ này một bức tranh thiên nhiên sáng tươi xinh đẹp và hội đạp thanh tưng bừng náo nhiệt. Nhưng cũng chính ở phần “Gặp gỡ” mà thông thừơng sẽ chưa có bóng dáng của tai họa – lại đã xuất hiện một nấm mồ, một cuộc đời và một nét cảm xưa có màu sắc bi kịch vế số phận của hồng nhan.

Một bức tranh thiên nhiên và một khung cảnh lễ hội.

Mặc dầu câu thơ thứ hai trong đoạn có thể đưa đến một liên tưởng, một ấn tượng nào đó về thời gian tuổi thọ, nhưng chủ yếu toàn bộ sáu câu thơ đầu tiên là một bức tranh thiên nhiên rực rỡ ánh sáng và màu sắc trong trẻo của bầu trời ,ïïthanh minh”, của hình ảnh đàn chim én bay qua bay lại linh họat, nhịp nhàng, của nội cỏ mênh mông một màu tươi sáng pha hòa giữa màu xanh lá cây và màu xanh cỏ non và của một cành lê thanh tú “trắng điểm một vài bônq hoa”…

Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ và tìm đến những bóng hình của quá khứ – đó là lễ nghi truyền thống. Nguyền Du đã chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự sự ngắn gọn về một sinh họat thông thường: “lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Nghi lễ vào hội hè có thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, nhưng đó vẫn là hai hình thức sinh họat văn hóa có khác biệt: Hội đạp thanh là cuộc vui chơi trên dặm cỏ xanh của lứa tuổi xuân xanh… Hội đạp thanh là một cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau… Trong tiết thanh minh, có hồi ức và tưởng niệm quá khứ (“lễ là tảo mộ”) nhưng cũng có khát khao và hoài vọng nhìn về phía trước của cuộc đời (“hội là đạp thanh”).

Sau câu thơ mở đầu là một bức tranh “đượm vẻ thiên nhiên” diễm lệ và tươi sáng. Vẫn chỉ là ngòi bút phác họa, chấm phá nhưng chủ yếu nhà thơ đã sử dụng từ ngữ dân tộc (trong đó có những câu thơ có thể gọi là “thuần Nôm”), đã lựa chọn những đường nét, những hình ảnh, những màu sắc đưa vào một tổng thể cấu trúc hội họa hài hòa giữa bức phông màu thiên thanh và những cánh chim én đậm màu sắc, sắc nét, giữa cành lê trong trắng trên nền cỏ mùa xuân tươi xanh…

Tiếp theo hình tượng thiên nhiên là ngôn nfgữ tự sự về cảnh lễ hội. Một hệ thống danh từ và động từ kép: “gần xa, yến anh, chị em, tài tứ, giai nhân… nô nức, sắm sửa, dập dìu, ngổn ngang” biểu hiện những họat động nhộn nhịp, náo nhiệt, tươi vui của mọi người và đây lại là một dòng những con người trẻ tuổi  “nam thanh nữ tú” với ngựa xe, irang phục đông đúc, chen chúc… Lễ viếng thăm phần mộ tưng bừng, náo nhiệt, xen kẽ ngày hội ngộ của tuổi thanh xuân đã hoàn chỉnh bức tranh mùa xuân khi cỏ câv hoa lá vẫn đang độ tươi xanh rực rỡ, khi không trung và ánh sáng đã trở lên trong trẻo và ấm áp hơn.

Dường như ánh sáng mùa xuân, niềm vui lễ hội đang bao trùm tất cả nhân gian (trong đó có ba chị em họ Vương;). Thông qua sinh họat du xuân của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa và một cung cách sống của gia đình viên ngoại họ Vương.

Một nấm mồ vô chủ và một số kiếp hồng nhan.

Thời gian đã chuyển qua, bóng đương chênh chếch xế chiều “Tà tà bóng ngả về Tây. Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật, dường như con người cũng chìm trong một cảm xúc bâng khuâng khó tả. Trong văn học trung đại, chiều tà thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ thê lương “Quán thu phong đứng vũ tà huy – Ai đem nhân ảnh nhuộm màu tà dương…” (Cung oán ngâm khúc). Cuộc du xuân ngoạn cảnh đã xong, đã chấm dứt lễ hội tưng bừng náo nhiệt… Tâm hổn con người đường như cũng “chuyển diệu” theo sự thay đổi của thời gian và tàn cuộc thanh minh để mang chút bâng khuâng thơ thẩn trên dặm đường về… Thời gian và tâm trạng đỏ báo hiệu sự biến đối trong không gian. Ớ đây chỉ có ba hình ảnh để tả phong cảnh: một dòng suối nhỏ. chiếc cầu nhỏ và một nấm mồ nhỏ… Cũng vẫn chỉ là ngòi bút phác họa qua sáu câu thơ. Đối lập với cánh đồng (lúc ồn ào của lễ hội

ở trên là một không gian cô tịch với dòng suối nhỏ uốn khúc “nao nao” nhẹ nhàng, dòng suối bé nhỏ tội nghiệp đến mức chỉ cần một m‘nhịp cầu nho nhỏ” bắc ngang là đủ để con người đi qua… Miêu tả dòng suối hay là miêu tả nỗi niềm nao nao xao động của lòng người? Giữa cảnh vật và lòng người dường như không có đường viền… Cũng như vậy, Nguyễn Du dùng những trạng từ kép: “sè sè, dàu dàu…” nấm đất thấp bé gợi hình ảnh một số phận nhỏ nhoi. Và riêng ngọn cỏ ở đây không hề mang một màu “xanh tận chân trời” như trên, mà lại chen màu vàng úa và “dàu dàu” héo hon, ủ rũ… Những từ ngữ “thanh thanh, nao nao, dàu dàu…’m biểu đạt sắc thái cảnh vật nhưng đồng thời cũng bộc lộ tâm trạng của con người.

Mội khung cảnh hoàng hôn báo hiệu ngày tàn đối lập với thiên nhiên trong tiết thanh minh tươi sáng, một nấm mồ cô quạnh, thê lương đối lập với lễ tảo mộ đông đúc, náo nhiệt… Một bức tranh đối lập khiến con người đa cảm phải thốt lên mội câu hỏi ngạc nhiên (Rằng: “Sao trong tiết thanh minh, Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”). Khung cảnh hoang vắng thê lương ấy minh chứng một câu chuyện thương tâm về một con người, một cuộc đời và một kết thúc đã bị cuộc đời lãng quên..

Từ khóa tìm kiếm

  • chuyện bônq phương
  • cảm nhận cảnh ngày xuân
  • Cảm nhận về đoạn trích cảnh ngày xuân

Bài viết liên quan

0