Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Văn mẫu lớp 11
Đánh giá bài viết Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Sơn Tây Hà Nội Lê Hữu Trác là một nhà y học tài năng đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ. Người ta còn biết đến ông với tư cách là một nhà văn nhà ...
Đánh giá bài viết Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Sơn Tây Hà Nội Lê Hữu Trác là một nhà y học tài năng đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ. Người ta còn biết đến ông với tư cách là một nhà văn nhà thơ xuất sắc, ông đã đóng góp vào kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm văn chương rất quý giá, trong ...
Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Sơn Tây Hà Nội
Lê Hữu Trác là một nhà y học tài năng đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ. Người ta còn biết đến ông với tư cách là một nhà văn nhà thơ xuất sắc, ông đã đóng góp vào kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm văn chương rất quý giá, trong đó phải kể đến đoạn trích vào phủ chúa Trịnh trong tập kí Thượng kinh kí sự của ông.
Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ hác của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo "thánh chỉ" để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà chúa và cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là môt trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích đã miêu tả tỉ mỉ quá trình cũng như khung cảnh tác giả được triệu vào khám bệnh cho thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày "mồng một tháng hai", "sáng tinh mơ"; và nói rõ nguyên cớ sự việc "có Thánh chỉ triệu vào cung: – đó là đặc điểm của thể kí sự. Ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lên như một thiên đường: "Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ của truyền báo rộn ràng"… Tâm hồn tác giả nhảy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có môt giọng trào lộng. Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật. Hải Thượng viết: "Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa…. mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường".
Đứng trước cảnh cung vua trang hoàng xa hoa lộng lẫy, tác giả đã phải thốt lên thành thơ, và miêu tả lại cảnh đẹp nơi chốn cung đình này:
"Lính nghìn cửa vác đồng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Quê mùa, cung ấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!"
Mới đọc những lời thơ trên, người đọc dễ nhầm tưởng rằng tác giả đang cảm động trước vẻ đẹp của cảnh vật, nhưng thực chất, trong việc ca ngợi cảnh vật là sự mỉa mai châm biếm đối với vua quan nơi phủ chúa mà tác giả không thể bộc lộ thẳng thắn được.
Cảnh cung đình thật tráng lệ và đẹp mắt, hiện lên như ở cõi tiên với những "lầu son, gác tía", "hiên ngọc, rèm châu". Tác giả nói mình là "ngư phủ" lạc vào chốn "đào nguyên" theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai? Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo cái giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: "Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Bằng những ngôn ngữ miêu tả hết sức chính xác và chân thực, tác giả đã khéo léo ngầm ý phê phán. Ông lên ác cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa một cách kín đáo.
Hải Thưởng Lãn Ông nhận thấy cuộc sống của muôn dân thì khổ cực, đói rách, nhưng trong phủ chúa thì sống xa hoa, sung túc. Đó là sản phẩm của sự bốc lột, trái ngược với đời sống của nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là "cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường".
Hải Thượng Lãn Ông là một thầy thuốc tài giỏi của dân tộc, việc ông được tiến cử chữa bệnh cho thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan tước sẽ là điều chắc chắn. Song, với Hải Thưởng Lãn Ông tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Ông không màng danh lợi, không ham muốn cuộc sống xa hoa nơi cung điện mà tìm các tránh được việc phải ở lại làm quan. Thực ra thì sự đấu tranh tư tưởng đã diễn ra trong tâm trạng của Hải Thưởng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh của cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo "trung" của kẻ bề tôi với lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thời loạn. Và cuối cùng ta thấy lòng ham "về núi" của kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn…
Khi vào đến phủ chúa, tài năng của ông đã làm cho thái y và quần thần kính nể. Song ông tự nhận thấy rằng, tài năng của ông không được sử dụng để phục vụ cho chốn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích riêng cho mình, mà là để phục vụ cho nhân dân, những người lam lũ và nghèo khổ.
Với tấm lòng vì nước vì dân và tài năng phi thường, qua ngòi bút của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện lại cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thưởng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và giàu y đức.
Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Bài làm 2
Đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh tả cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực nhà Chúa qua cái nhìn của tác giả lần đầu tiên được vào phủ chúa.
Quang cảng và những sinh hoạt trong phủ chúa Trịnh được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một người thầy thuốc miền quê lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ này (tác giả tuy là “con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa”, từng biết nhiều nơi trong cấm thành, nhưng việc trong phủ chúa thì “chỉ mới nghe nói”).
a. Quang cảnh trong phủ chúa vô cùng sa hoa, tráng lệ và không kém phần thâm nghiêm, nói lên quyền uy tột bậc của nhà Chúa.
– Khi vào nhà chúa phải đi qua nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”.
– Khuôn viên trong phủ chúa, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Điều đó cho thấy chúa giữ vị trí trọng yếu và có uy quyền tối thượng trong triều đình.
– Bài thơ của tác giả chứng minh rõ thêm sự uy quyền và sang trọng của phủ chúa.
Lính nghìn của vác đòng nghiêm ngặt,
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ cung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đôi phen.
Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.
– Những lời lẽ nhắc đến chúa Trịnh và thế tử đều phải hết sức cung kính, lễ độ: Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến, hầu mạch Đông cung thế tử (xem mạch cho thế tử), hầu trà (cho thế tử uống thuốc), phòng chè (nơi thế tử uống thuốc)…
– Chúa Trịnh luôn luôn có “phi tần chầu trực” xung quanh. Tác giả không thấy được mặt chúa mà chỉ làm theo mệnh lệnh chúa do quan Chánh đường truyền đạt lại, xem bệnh cong cũng không được phép trao đổi mà chỉ viết tờ khải để quan Chánh đường dâng lên chúa. Nội cung trang nghiêm đến nỗi tác giả phải “nín thở đứng ở xa”, “khúm núm đến trước sập xem mạch”…
– Thế tử bị bệnh có đến bảy, tám thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có “mấy người đứng hầu hai bên”. Thế tử chỉ là một đứa bé năm, sáu tuổi nhưng khi xem bệnh tác giả – một cụ già – phải quỳ lạy bốn lạy, xem mạch xong mạch xong lấy lại lạy bốn lạy trước khi lui ra. Muốn xem thân hình thế tử phải có một viên quan nội thần đến xin phép được cởi áo cho thế tử.
b. Sự tinh tế, sắc sảo của tác giả đọng lại ở những chi tiết tuy nhỏ nhưng rất gây ấn tượng, như việc thế tử, một đứa bé, ngồi chễm chệ trên sập vàng cho thầy thuốc, một cụ già, quỳ dưới đất lạy, rồi cười và ban một lời khen “Ông này lạy khéo”. Hoặc khi đi ra vào nơi ở của thế tử để xem mạch: “Đột nhiên thấy ông ta mở một chỗ trong màn gấm bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi qua độ năm, sáu lần trước gấm như vậy…”. Tác giả chú ý đến các chi tiết bên trong cái màn là nơi “Thánh thượng đang ngự”: “Có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Việc ăn chơi hưởng lạc của nhà chúa nó phơi bày ra trước mắt người đọc không cần thêm một lời bình luận nào.
– Thái độ và tâm trạng của tác giả: Trước những cảnh được chứng kiến trong phủ chúa, Lê Hữu Trác không bộc lộ trực tiếp thái độ, nhưng qua ngòi bút ghi chép thực hiện sắc sảo và những cảm xúc được ghi lại đây đó, có thể thấy được phần nào thái độ của người viết.
– Đứng trước cảnh phủ chúa xa hoa, lộng lẫy, tấp nập người hầu kẻ hạ, tác giả đã nhận xét: “Bước chân tới đây mới hay cái cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường” và vịnh một bài thơ tả hết cái sang trọng, vương giả tỏng phủ chúa (với gác vẽ, rèm châu, hiên ngọc, vườn ngự có hoa thơm, chim biết nói, nghìn tầng cánh cửa lính gác nghiêm ngặt…), trong đó có lời khát quát: “Cả trời Nam sang nhất là đây”.
– Khi được mời ăn cơm sáng, tác giả nhận xét: “mâm vàng, chén bạc, ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của đại gia”.
– Đường vào nội cung thế tử được nhận xét là: “Ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả”. Cảnh nội cung cũng được miêu tả chi tiết như củng cố thêm cho những nhận xét của tác giả khi vừa vào đến phủ chúa trịnh.
– Nói đến bệnh trạng của thế tử, tác giả nhận xét: “Vì thế tử ở trong chốn màn che, trướng phủ, ăn no quá, mặc ấm quá nên phủ tạng yếu đi”.
Qua những chi tiết trên, có thể thấy, mặc dù khen cái đẹp, cái sang ở phủ chúa nhưng tác giả lại tỏ ra dửng dưng trước những quyến rũ vật chất và không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và không khí tự do.
Tâm trạng và cảm nghĩ của Lê Hữu Trác khi chữa bệnh cho thế tử diễn biến phức tạp. Ông hiểu rõ căn bệnh của thế tử, đưa ra những luận giải hợp lí, thuyết phục và có cách chữa đúng bệnh nhưng lại sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, công danh bó buộc. Để tránh những điều không thích thú này, cần chữa bệnh cầm chừng, cho thuốc vô thưởng, vô phạt. Nhưng làm như thế thì trái với y đức, trái lương tâm, phụ lòng ông cha. Hai suy nghĩ giằng co, xung đột nhau. Cuối cùng, lương tâm, phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã thắng. Tác giả dã gạt sang một bên cái sở thích của riêng mình để làm tròn trách nhiệm. Và khi đã quyết, tác giả đã thẳng thắn đưa ra và bảo vệ ý kiến của riêng mình, mặc dù ý kiến đó trái với ý kiến của đa số thầy thuốc thông thường làm cho quan Chánh đường ngần ngại “tỏ ý kiến nói đi nói lại mấy lần”. Những chi tiết về việc chữa bệnh của Lê Hữu Trác đã cho thấy:
+ Tác giả một thầy thuốc giỏi, có kiến thức sâu rộng và già dặn kinh nghiệm.
+ Bên cạnh tài năng, ông còn là một con người khinh thường danh lợi quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà. Mặc dù tận mắt chứng kiến sự quyến rũ của vật chất giàu sang, và làm việc được hưởng thụ giàu sang đang nằm tròn tầm tay, nhưng tác giả vẫn dửng dưng không mảy may rung động.
Quan điểm này cũng gián tiếp cho thấy tác giả không đồng tình với việc thụ hưởng lạc thú quá mức xa hoa của những người nắm trọng trách quốc gia. Ý muốn “về núi” của Hải Thượng Lãn Ông là một sự đối nghịch gáy gắt với quan điểm sống của gia đình chúa và bọn quan quyền dưới trướng. Không cần bình luận nhiều, nhưng những thứ song son thiếp vàng, võng điều áo đỏ, đèn đuốc lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…đặt bên cạnh cái thanh đạm của một ông già áo vải “ở nơi quê mùa” tự nó đã phơi bày ra sự tương phản giữa đục và trong.
Do đó, có thể nói tính chân thực của Vào phủ Chúa Trịnh có một giá trị hiện thực hết sức sâu sắc.
Bằng tài quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chân thực, sắc sảo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời qua đó cũng bộc lộ thái độ coi thường danh lợi.
Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Bài làm 3
Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.
Vào Trịnh phủ là đoạn trích kể lại sự việc tác giả được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Qua đoạn trích, tác giả đã thể hiện chân thực bức tranh sinh động về cuộc sống kiêu sa, vương giả và hiện thực cuộc sông nơi phủ chúa. Vào Trịnh phủ là một phần của tập Thượng kinh kí sự, là tác phẩm thuộc thế kỉ. Vì vậy đoạn trích là lời kể mộc mạc và chân thực, có ghi rõ thời gian Mồng 1 tháng 2, sáng tinh mơ và có sự việc: Có thánh chỉ triệu vào cung. Song điều làm cho chúng ta chú ý đó là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lẽn vô cùng rực rờ qua cái nhìn của tác giả. Ban đầu Lê Hữu Trác được hò chìm trong khung cảnh vườn phủ chúa: Tôi ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương. Cảnh vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên giới trong các truyện cổ tích dân gian, chứ không phải cảnh ở hiện thực mà tác giả nhìn thấy. Tiếp đến tác giả ghi lại những sự việc minh nhìn thấy: Nlìững dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, người qua lại như mắc cửi. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ những nét suy nghĩ chân thành khi có việc liên quan được đặt chân vào một nơi mà chính tác già cũng nghĩ mình đang ở trong mơ: Tôi nghĩ bụng: mình vốn con quan… Bước chân đến đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường. Điều này chứng tó thái độ ngỡ ngàng đến bất ngờ của tác giả. Khung cảnh giàu sang đó là ngoài sức tưởng tượng của ông. Đứng trước cảnh đẹp đệ nhất trời Nam ấy, tâm hồn người thầy thuốc tràn ngập một cảm xúc chân thành cứa một tâm hồn nhạy cảm:
Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây…
… Khác gì ngư phủ đào nguyên thủa nào.
Bản thân vốn là một con người không màng danh lợi, nhưng đứng trước khung cảnh hoành tráng này, Lê Hữu Trác không tỏ ra miệt thị, phản diện trong cách nhìn nơi mà ông không hề muốn đến này. Trái lại ông vẫn ngợi ca, vẫn ngập tràn xúc cảm trước vẻ đẹp tuyệt vời nơi đây, có được điều này là do Lê Hữu Trác là nhà thơ có tâm hồn giàu cảm xúc trước thiên nhiên, tạo vật, thế sự. Có một điều chúng ta nhận thấy rằng ông nhìn và cảm nhận bằng con mắt khách quan, đứng trước cảnh đẹp thì ông ngợi ca, nhưng không hoàn toán ngợi ca tất cả, dường như đằng sau những dòng thơ này vẫn ẩn chứa một nỗi niềm u hoài của tác giả:
Quê mùa cung cẩm chưa quen
Ông tự coi mình là kẻ quê mùa lạc vào chốn cung đình, có khác gì Đào nguyên lạc vào chốn thần tiên. Cảnh thì đẹp đấy, nhưng lòng người nào có vui gì.
Đoạn trích là những trang kí sự giàu cảm xúc về cảnh giàu sang nơi phủ chúa và bệnh tình của thế tử. Nhưng bên cạnh những dòng hiện thực ấy, người đọc vẫn thấy toát lên trên tất cả là một tâm hồn, một nhân cách cao đẹp của danh y Hải Thượng Lãn Ông. Vốn bản thân không màng công danh, ông đã chọn nơi rừng núi yên tĩnh để sống cuộc sống ẩn dật, lấy chim muông làm bầu bạn, hoa cỏ làm niềm vui. Bởi thế mà Lê Hữu Trác dường như xa lạ trước cuộc sống cung đình. Tuy xa lạ nhưng ông không hề ngơ ngác mà vẫn giữ được cái uy nghi, trầm tĩnh của một ẩn sĩ. Trước hàng ngũ quan lại không hề tỏ ra khúm núm, hay kiêu ngạo khi danh tiếng của mình được nhiều người biết đến. Ngôn ngữ ông dùng thật khiêm nhường: Tôi là kẻ nơi quê mùa, làm sao biết được các vị ở nơi triều đình đông đúc như thế này. Ông còn dũng cảm chỉ ra sự ngu dốt của các quan thái y trong triều, đó là việc ông không nghe theo lời ngụ ý của quan chánh đường mà vẫn hành động theo lương tâm nghề nghiệp của mình, trình đơn thuốc lên thánh thượng. Ông cũng là người thấy được căn bệnh thừa mứa, ngu dốt của bọn ở phù chúa một cách chính xác: Vì Thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ… nên phủ tạng yếu đi. Chốn lầu son gác ngọc ấy đã làm cho con người trở nên hao mòn, mất hết nhuệ khí, lại chứa toàn bọn ngu dốt như quan chánh đường và các quan thái y chỉ lo dùng thuốc công phạt theo ý mình. Tỏ ta đây là hiểu biết nhưng chỉ làm cho thế tử ngày càng yếu đi. Thế tử chính là nạn nhân của sự ngu dốt, của sự thừa thãi quá mức nơi phủ chúa. Đó cũng chính là những biểu hiện rõ nét nhất của một triều đại suy đồi đã đến lúc mạt vận, diệt vong, là sản phẩm của một chôn chỉ biết xu nịnh, ăn chơi phè phỡn không lo cho cuộc sống của nhân dân lao động.
Lê Hữu Trác nhanh chóng nhận ra khuyết tật của phủ chúa, phán xét chính xác căn bệnh của thế tử, đồng thời cũng thấy được căn bệnh chung của nơi giàu sang này. Chính vì thế mà có lúc ông đã do dự: Nếu mình làm, sao về núi được nữa, chi bằng ta dùng phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu. Từ xưa đến nay, con người chỉ sợ thất bại, khổ đau. Còn với Lê Hữu Trác thì hoàn toàn ngược lại, ông sợ công danh, sợ uy quyền ràng buộc. Nhưng những suy nghĩ ấy nhanh chóng mất đi, nhường chỗ cho chữ trung, chữ đức cha ông mình đời đời… để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được. Là một nhà nho chân chính, dù lánh xa danh lợi, nhưng để giữ vững khí tiết của mình, ông vẫn đặt chữ trung lên hàng đầu, dù vị chúa mà ông thờ, triều đại mà ông sống là một xã hội thối nát, suy đồi. Ông có thể làm như suy nghĩ ban đầu, không hại ai, cũng không gây đau khổ cho ai, nhưng vì tấm lòng lương y như từ mẫu cứu người không phân biệt sang hèn, đẳng cấp, Lê Hữu Trác đã làm đúng tâm đức của một thầy thuốc. Tấm lòng ấy đáng được ca ngợi.
Phải có một cái nhìn tinh tế, một tâm hồn và nhân cách cao thượng, tác giả mới có cái nhìn sắc sảo và chân thực về cuộc sống xa hoa mà tàn tạ nơi phủ chúa.
Tóm lại, qua đoạn Vào Trịnh phủ chúng ta đã thấy được khung cảnh giàu có, xa hoa nơi phủ chúa, đồng thời cũng nhận thây một nhân cách cao thượng trong con người của danh y Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác.
Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Bài làm 4
Lê Hữu Trác là một danh y nhưng có tư tưởng ẩn dật, lánh đời, không ham công danh phú quý. Cái nhìn của người ẩn dật được đôi mắt của ống chiếu vào quanh cảnh phủ chúa vốn là nơi cực kì sang giàu, phú quý. Ông tả phủ chúa thâm nghiêm, xa hoa tráng lệ, từ vườn hoa thơm ngào gạt, cung phủ với gấm vóc lụa là, người hầu kẻ hạ, đồ đạc sơn son thiếp vàng, đồ dùng chưa hề thấy trong dân gian như mâm vàng chén bạc, cảnh phi tần son phấn, ánh nến cháy rực rỡ. Đặc biệt là cảnh ông khúm núm lạy bốn lạy và bắt mạch cho “thế tử” Trịnh Cán mới độ 5-6 tuổi.
Để hiểu đúng mục đích việc tả tỉ mỉ cảnh tượng phồn hoa, thịnh vượng này của tác giả, cũng cần biết kết thúc Thượng kinh kí sự. Ông kể khi về đến quê vài ngày thì nghe tin cuộc chính biến kiêu binh đã giết hại cả nhà quan Chánh đường (tất nhiên ta ngầm hiểu là Trịnh Cán cũng phải bỏ chạy). Ông viết: “Giàu sang như mây nổi, những nơi đàn sáo lâu đài trước đây bỗng phút chốc trở thành gò hoang cồn vắng”. Như vậy, nhà văn đã không tả với cảm hứng ca ngợi hay thán phục mà tả để chuẩn bị cho kết luận của ông về sự phù hoa, giả tạo và tạm bợ của giàu sang phú quý. Giàu sang như đám mây bay, thay đổi, tụ tán bất thường, không nên chạy theo giàu sang, danh lợi, hãy vui với cuộc sống người ẩn sĩ.
Việc tả tỉ mỉ cùng còn hàm ý phê phán kín đáo đối với chúa Trịnh Sâm. Trịnh Sâm tiếm quyền vua Lê với những bằng chứng vật chất: Ghế rồng của y sơn son thiếp vàng là một bằng chứng hùng hồn.
Đoạn trích có nhiều chi tiết “dắt”. Nói về sự chán ghét công danh phú quý, ông dùng chi tiết phu cáng chạy nhanh như ngựa chạy lồng làm ông khổ sở. Trước những cảnh và đồ vật lộng lẫy trong phủ, ông chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi xuống đi. Số lượng bảy, tám vị lương y tập trung chữa bệnh cho Trịnh Cán cũng tố cáo sự bất tài bất lực của các quan ngự y lương cao bổng hậu. Việc tả thâm cung tăm tối, thiếu dưỡng khí chỉ rõ cách nhin sắc sảo của vị lương y ẩn dật vốn sống gần tự nhiên đối với nguyên nhân bệnh trạng của Trịnh Cán- căn bệnh do chính lối sống phú quý đem lại. Đặc biệt, các chi tiết xung quanh việc ông bắt mạch cho Trịnh Cán: lạy bốn lạy được Cán khen là “ông này lạy khéo” cũng nói lên nỗi đau đớn ám thầm của ông, sự nhục nhã của kẻ hầu hạ bọn vua chua quyền uy để kiếm chút bổng lộc. Những chi tiết ấy sẽ giải thích tại sao ông đã kiên quyết từ chối quan chức mà quan Chánh đường đề nghị ông để xin về quê. Chi tiết về phi tần áo đỏ phấn sáp dưới ánh nến cũng tố cáo sự ăn chơi, hưởng lạc sa đọa của chúa Trịnh Sâm. Nói chung các chi tiết cho thấy cai nhìn sắc sảo và hiện thực của tác giả, cho biết lí tưởng ẩn dật của ông đối lập với ham muốn công danh, phú quý như thế nào.
Các suy nghĩ khi lí giải về bệnh tình và cách chữa bệnh cho Trịnh Cán cho thấy tác giả dửng dưng với cám dỗ giàu sang, coi việc ăn quá no, mặc quá ấm của giới quyền quý là nguồn gốc của bệnh tật, do đó càng thấm thía với tự do của cuộc sống bình thường.
Nhân cách cao đẹp của tác giả cũng bộc lộ trong giây phút dấu tranh nội tâm. Là nhà ẩn sĩ, ông sợ nếu mình đem tài ra chữa bệnh cho Trịnh Cán thì chắc chắn được trọng dụng, sẽ rơi vào vòng danh lợi. Nhưng là một lương y, với lượng tâm thầy thuốc, ông quyết định bảo vệ quan điểm của mình về nguyên nhân bệnh tình, bất chấp diều đó có thể trái với ý của quan Chánh đường, tức là không có lợi cho ông.
Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Bài làm 5
Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác không chỉ là một danh y nổi tiếng, mà còn là một tác giả có nhiều tác phẩm văn học có giá trị thời trung đại. Lê Hữu Trác để lại cho đời một sự nghiệp y học đồ sộ, nổi bật hơn cả là bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh được coi là bách khoa toàn thư về y học thế kỉ XVIII. Các tác phẩm của ông không chỉ có giá trị về y học mà còn mang nhiều giá trị văn học sâu sắc vì đã ghi lại cảm xúc chân thật cùng như bộc lộ tâm huyết, đức độ của người thầy thuốc. Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ nà
“ Vào phủ chúa Trịnh” là một đoạn trích được rút ra từ “ Thượng thư kí sự” của tác giả Hải Thượng Lãn Ông –Lê Hữu Trác. Tác phẩm kể về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh cũng như quyền uy thế lực nhà chúa cũng như những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp được chúa Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh. Đoạn trích vào Trịnh phủ không chỉ miêu tả cuộc sống xa hoa ở phủ chúa, mà còn thể hiện rõ nét tâm hồn và nhân cách của vị lương y tài hoa đức độ này.
Tác phẩm viết trong bối cảnh khi những vị quan thanh liêm đều tìm cách lui về ở ẩn giữ được lối sống thanh cao của mình. Chính vì những người tài giỏi thì thường chúa ghét vòng danh lợi họ chỉ giúp vua một thời gian rồi về ở ẩn với nhân dân giúp đỡ nhân dân trong cuộc sống hàng ngày. Bao nhiêu bậc nho sĩ, người tài. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng vậy, chúng ta được biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi. Về ở ẩn ông không những là một người thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn. Trong tác phẩm “ Vào phủ chúa Trịnh” này Lê Hữu Trác đã phê phán những thói ăn chơi xã đọa của bậc vua chúa. Nơi đây không khác gì cho những bậc thánh ở.
Đoạn trích “Vào phủ chúa trịnh ghi lại thời điểm:” Sau khi Hải Thượng Lãn Ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì ông được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này. Qua đây tác giả có cơ hôi chiêm ngưỡng và chứng kiến sự giàu có xa hoa và cung cách làm việc nơi phủ chúa. Trước hết là quang cảnh trong phủ chúa Trịnh, đập ngay vào mắt tác giả là những quang cảnh của cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm. quả thật đây là một nơi sang trọng bậc nhất thiên hạ. Bên cạnh đó vào phủ chúa phải trải qua biết bao nhiêu là cửa sự trang nghiêm nơi đây thật sự khiến cho người ta rụt rè chân bước “ Hậu mã quân thúc trực” để cho chúa sai việc. Không chỉ dừng lại đó bên trong cửa phủ thì có những “đại đường”, “quyền bổng”, “gác tía” với kiệu son, võng nghi lộng lẫy, tất cả mọi thứ đều được mạ vàng. Từ những chiếc cột cho đến những mâm bát chén cũng đều như được dát vàng. Cuộc sống ở đây quả thực xa hoa bậc nhất .
Sự sang trọng mà hiển diện trong phủ chúa được tác giả miêu tả và nhận xét là “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Khi tác giả bước chân đến nội cung của thế tử thì phải bước qua mấy lần trướng gấm. Trong căn phòng của thế tử cũng có nhiều thứ rất sang trọng mà người đời mấy ai được xem qua. Trướng gấm, những sập cũng sơn son thiếp vàng, ghế rồng hương hoa bay ngào ngạt. Sự giàu có của phủ chúa không thể nói hết trong một hai câu, có thể những gì viết ra chỉ lột tả hết một phần của sự nguy nga tráng lệ nơi đây. Cảnh tượng ấy thật sự là khiến cho người ta đau lòng vì khi nhân dân thì đang khổ sở với cuộc sống thì chúa cái người mà đứng ra cai quản lại có thể ăn chơi xa đọa trước những vất vả của nhân dân như vậy.
Không chỉ có quang cảnh ở đây lộ vẻ xa hoa mà ngay cả tới người hầu kẻ hạ cũng ra vào tấp lâp “đầy tớ chạy trước hết đường”, rồi lại đến “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Lời nói của mọi người khi nhắc đến thế chúa và thế tử đều rất cung kính, lễ độ. Riêng với chúa Trịnh lúc nào cũng có những cung tần mĩ nữ xung quanh để hầu hạ. Chúa giống như những bậc thánh khiến cho tác giả cũng khó mà gặp mặt chúa mà chỉ làm theo chỉ dẫn để vào cung thăm bệnh cho thế tử Trịnh Cán mà thôi. Khi xem bệnh xong thì không được trao đổi với chúa mà phải viết giấy khai đưa lên. Còn riêng phần thế tử thì khi bị bệnh lại có rất nhiều tầm bảy, tám ngự y thúc tục vây quanh. Cung cách khám bênh ở phủ chúa , những ngự y ở đây, muốn khám bệnh cho con chúa thì đều phải quỳ lạy dưới chân của một đứa bé. Không chỉ vậy mà người gọi chúa Trịnh là thánh thượng, các chữ “thánh” ấy phải chăng chúa Trịnh đang quá lạm dụng quyền hành của mình.
Những quan điểm của tác giả cũng được bộc bạch qua cách miêu tả quang cảnh và cung cách ở trong phủ chúa Trịnh. Những câu văn của tác giả như dửng dưng trước sự quyến rũ của giàu ó xa hoa nơi đây và giọng điệu trong đoạn trích thể hiện thái độ không đồng tình mà lớn hơ là trái ngược với những gì lẽ ra một người cận thần mong muốn nhận bổng lộc nên làm. Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy : Sự lộng quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi ấy.
Qua đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh Qua tác giả đã phơi bày cuộc sống xa hoa ở đây cũng như cung cách của con người trong phủ chúa. Sự xa hoa ấy không phải là một lời khen ngợi , ca ngợi sự nguy nga ở đây mà chính là nói lên sự thực sự tráng lệ đó là chính nhân dân khổ cực bị chúa bóc lột đến tận xương hay không.
Cảm nghĩ về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác – Bài làm 6
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một danh y tài năng, giàu y đức, sống vào cuối thế kỉ XVIII, thời vua Lê – chúa Trịnh. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ đáng kính. Trong cuốn “Thượng kinh kí sự (viết năm 1782), với ngòi bút kí sự chân thực và sắc sảo, ông đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, về quyền uy, thế lực của nhà chúa, miêu tả kinh đô Thăng Long lúc bấy giờ nhân dịp ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn thể hiện tập trung giá trị của tác phẩm kí sự này. Cũng qua đoạn trích, ta thấy được đôi nét về tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn ông.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh cũng như tập Thượng kinh kí sự khắc họa chân thực những điều mắt thấy tai nghe nhân dịp Lãn Ông được triệu vào kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Qua doạn trích, ta còn thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của ông: đó là sự coi thường danh lợi, giữa cho nhân cách được trong sạch.
Lê Hữu Trác ngỡ ngàng trước quang cảnh kinh đô. Đó là bởi “cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” (!). Cảnh giàu sang ở đây khác quá. Lê Hữu Trác, vốn con quan, sinh trường ở chôn phồn hoa cũng phải thốt lên rằng: “Cả trời Nam sang nhất là đây!” Bao nhiêu giàu sang phú quý đều tập trung ở phủ chúa. Những người dân bình thường có bao giờ được biết đến cái cảnh sang giàu này. Nhưng đó cũng mới chỉ là cái biểu hiện ban đầu. Bài thơ mà cụ Lê Hữu Trác ngâm đọc đường đi được kết thúc bằng câu:
“Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khúc gì ngư phủ đào nguyên thủa nào!”
Câu kết thúc ấy đã phần nào phản ánh tâm tư của cụ. Cuộc sống bên ngoài và bên trong phủ chúa thật là khác nhau. Giống như người ngư phủ năm xưa lạc vào chốn thần tiên, huyền ảo, thơ mộng. Có một cảm giác xót xa lần quất ở đâu đây. Một sự phân vân, trăn trở trong tâm hồn người làm nghề y. Không phải ngẫu nhiên cụ Trác có hứng ngâm thơ chơi, mà đó là để ghi nhớ cái sự giàu sang khác thường trong phủ chúa. “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.” Được ngồi trên cáng để vào phủ mà “khổ không nói hết”. Chỉ với chi tiết ấy đã cho thấy tâm hồn Lê Hữu Trác không hợp với chốn này. Ông sinh ra không phải để dành cho những chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào”.
Sự ngỡ ngàng ngạc nhiên cũng được tăng dần qua từng nơi cụ đặt chân đến. “Những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” chưa bao giờ thấy được đặt trong cái điểm ven hồ. Rồi những đồ dùng trong phủ chúa đều được sơn son thếp vàng, từ cái kiệu để vua chúa đi, đến các đồ nghi tượng, từ cái sập đến những cây cột… Bàn ghế thì toàn những đồ đạc “nhân gian chưa từng thấy”. Tác giả chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cái cử chỉ cúi đầu đi ấy chứng tỏ rằng Lê Hữu Trác không phải là người đam mê vinh hoa phú quý, ham tiền bạc hay lợi lộc. Đó là một nét đẹp trong nhân cách con người ông. Ông cảm thấy lạ lẫm và lạc lõng giữa cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những điều đó đều bộc lộ qua ngòi bút kí sự đặc sắc, chân thực.
Nhân cách và tâm hồn danh y họ Lê còn được bộc lộ ngay trong suy nghĩ của ông khi kê đơn thuốc cho thế tử Trịnh Cán. Một đấu tranh quyết liệt trước tòa án lương tâm. Một bên là sự trói buộc của công danh, một bên là cái tâm của người thầy thuốc, cái đạo làm người, cái phận làm bề tôi. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được (…). Nhưng rồi lại nghĩ: “Cha ông mình đời đời yêu nước, ta phải dốc hết lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”. Có thể thấy Lê Hữu Trác là người không màng công danh, không ham bổng lộc. Ngược lại ông còn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi sự ràng buộc ấy, để được sống tự do cùng núi non để tâm hồn thanh thản. Mặt khác ông cũng là người thầy thuốc có tâm huyết và giàu đức độ. Vì thế mà ông đã kê cho thế tử “phương thuốc hòa hoãn nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”, vì lương tâm không cho phép. Nếu làm sai thì sẽ phải phỉ báng cái nghề y của mình, sẽ có lỗi với lòng mình; nếu làm đúng và tốt thì sẽ bị danh lợi ràng buộc. Dù thế nào cũng phải giữ được cho tâm hồn trong sạch, giữ cho nhân cách được trọn vẹn. Cách lí giải về bệnh tình của Trịnh Cán cũng như diễn biến suy nghĩ, tâm trạng của ông khi kê đơn cho thấy Lê Hữu Trác là người thầy thuốc có lương tâm.
Như vậy, từ cách nhìn của Lê Hữu Trác đối với đời sống nơi phủ chúa, đến sự suy nghĩ cân nhắc khi kê đơn cho thế tử đều cho thấy ông là người có tâm huyết với nghề và có nhân cách, giàu đức dộ, coi thường công danh, bình thường danh lợi và một chút đau xót trước cảnh sống xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh.
Tài năng ấy, tâm hồn ấy, nhân cách ấy của Lê Hữu Trác đã giúp cho ông sống mãi trong lòng người thầy thuốc nói riêng, người dân đất Việt nói chung. Ông xứng đáng được phong tặng danh hiệu ông tổ của nghề thuốc và được người đời sau nhắc đến với lòng thành kính nhất.