25/05/2018, 17:43
Các phương pháp nghiên cứu văn hoá học
G. A. Avanesova Phương pháp nghiên cứu của văn hóa học là tập hợp các phương thức, thao tác và biện pháp được sử dụng để phân tích văn hóa và, ở mức độ nhất định, tạo nên đối tượng của nghiên cứu văn hóa. Do văn hóa học là một lĩnh vực kiến thức tích ...
G. A. Avanesova
Phương pháp nghiên cứu của văn hóa học là tập hợp các phương thức, thao tác và biện pháp được sử dụng để phân tích văn hóa và, ở mức độ nhất định, tạo nên đối tượng của nghiên cứu văn hóa.
Do
văn hóa học là một lĩnh vực kiến thức tích hợp, thu thập kết quả nghiên
cứu của một loạt khoa học chuyên ngành (nhân học văn hóa, nhân học xã
hội, dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học, sử học…), cho
nên thao tác phân tích được thực hiện thông qua sự tổng hợp các phương
pháp và mục đích nhận thức, tập hợp xung quanh một trung tâm: văn hóa và
các bình diện của nó. Điều này đã cho phép tư duy lại nhiều quan niệm
và khái niệm đang tồn tại trong khuôn khổ mỗi chuyên ngành hợp thành văn
hóa học. Trong quá trình phân tích văn hóa học, các phương pháp cụ thể
của từng chuyên ngành khác nhau được sử dụng một cách có chọn lọc, tính
đến khả năng giải quyết các vấn đề, phân tích chúng trên phương diện văn
hóa học. Không hiếm khi chúng được sử dụng không phải với tư cách các
thao tác hình thức, mà giống như các cách tiếp cận trong nghiên cứu xã
hội hoặc nghiên cứu nhân văn. Tất cả những điều này tạo nên cơ sở để
biểu hiện về sự biến thái nhất định các phương pháp chuyên ngành, về sự
tích hợp chúng trong khuôn khổ các nghiên cứu văn hóa, và đó, cuối cùng,
chính là tác nhân kích thích sự phát triển nhận thức văn hóa học nói
chung.
Sự
nhận biết như vậy không có nghĩa là dẫn đến loại bỏ sự cần thiết phân
thành những nhóm đặc biệt và nghiên cứu chuyên sâu các phương pháp phân
tích của văn hóa học. Trong hệ phương pháp của văn hóa học cũng áp dụng
sự chia tách, phổ biến đối với các khoa học xã hội và nhân văn khác, là
chia thành các phương pháp phục vụ cho việc nghiên cứu tri thức cơ bản
và các phương pháp gắn với việc thu nhận tri thức kinh nghiệm. Cũng có
thể tách thêm một nhóm đặc biệt các phương pháp nghiên cứu lĩnh vực tri
thức văn hóa học ứng dụng. Trong những thập niên gần đây trong khuôn khổ
tri thức ứng dụng đã xuất hiện các phương pháp và kỹ thuật của các
chuyên ngành văn hóa học mới nhất như nhân học sinh thái, nhân học đô
thị, dự án văn hóa-xã hội, tổ chức các liên kết và quan hệ liên thiết
chế (trong đó có tư vấn thích ứng, giao tiếp cộng đồng…
Một
cách phân nhóm các phương pháp nghiên cứu văn hóa học khác bắt nguồn từ
cách phân chia truyền thống trong lịch sử, chia các khoa học thành khoa
học về tự nhiên và khoa học về tinh thần. Đến thế kỷ XX các nhà nghiên
cứu bắt đầu nói đến việc sử dụng trong phân tích xã hội và phân tích văn
hóa các phương pháp của nghiên cứu văn hóa nhân văn và nghiên cứu văn
hóa xã hội theo hệ thuật ngữ của tư duy khoa học Nga. Khi nói về các
ngành khoa học nhân văn, người ta muốn nói đến tổ hợp các phương pháp
của nghiên cứu ngữ văn, nghiên cứu văn học, sử học, lý luận văn hóa,
nghiên cứu tôn giáo, nghệ thuật học, dân tộc chí, nhân học văn hóa,
triết học, đạo đức học,… Còn khi nói đến các khoa học xã hội, người ta
đưa vào nhóm này các phương pháp của kinh tế học, chính trị học, dân tộc
học, xã hội học,… Trong nhóm thứ nhất, nhiệm vụ cơ bản là nghiên cứu
tính chất cá thể của văn hóa, so sánh chúng, mô tả các tư liệu xuất phát
điểm của văn hóa. Còn thao tác tổng quát trong trường hợp này chỉ là
nhiệm vụ thứ yếu. Đồng thời người ta cũng sử dụng các phương pháp gắn
liền với việc đi sâu thấu hiểu văn hóa, thâm nhập vào ý nghĩa bên trong
của các hiện tượng và giá trị của nó, bằng cách này hay cách khác, gắn
với quan điểm giá trị của khuynh hướng thực chứng. Trong số chúng, có
tầm quan trọng đặc biệt là các phương pháp dân tộc học thực địa (mô tả,
phân loại, phương pháp tàn dư,…), phương pháp quan sát, phỏng vấn mở của
tâm lý học và xã hội học, các phương pháp của sử học (trong đó có
phương pháp lịch sử - so sánh), phân tích văn bản trong khuôn khổ hệ
hình của giải minh học,… Trong nhóm thứ hai, ngược lại, nhiệm vụ chủ yếu
là tìm ra các qui luật và nguyên tắc, cho phép đi từ những qui luật
chung đến thấu hiểu các hiện tượng riêng. Trong nhóm này, các thực tế
riêng lẻ ít có giá trị hơn các tổng kết mang tính hệ quan niệm, phân
tích tính chất chung của các hiện tượng và liên kết chúng với rất nhiều
hiện tượng khác. Trong trường hợp này, việc sử dụng các phương pháp này
hay khác chủ yếu là hướng tới việc làm rõ về mặt nhận thức các chức năng
của văn hóa, nêu bật những mối liên hệ nhân - quả, khách quan, bên
trong của nó, thấu hiểu một cách có phê phán các hiện tượng tinh thần
của đời sống văn hóa. Bên cạnh đó, các phương pháp, nguyên tắc và phạm
trù nhận thức bị cuốn hút về mô hình lý tưởng phân tích hệ hình của khoa
học tự nhiên và phương thức xây dựng đề án-công cụ để vận dụng chúng.
Theo khuynh hướng này được sử dụng rộng rãi là các phương pháp và thủ
pháp cụ thể của phép phân tích trong các nghiên cứu kinh tế học, chính
trị học, xã hội học - đó là cách tiếp cận cấu trúc - chức năng, phương
pháp phân loại, phân tích sự kiện và các hợp phần, mô hình hóa đi đôi
với áp dụng phân tích toán học, trưng cầu dư luận xã hội, nghiên cứu văn
bản bằng phương pháp phân tích nội dung,…
Như
vậy, nhóm các phương pháp thứ nhất ở mức độ cao hơn, có khả năng phản
ánh thế giới không gian vật thể và sự kiện cụ thể của văn hóa, phản ánh
dòng chảy kinh nghiệm văn hóa còn phân lập yếu của con người, cũng như
các đặc tính của hiện tượng văn hóa như những sự khác nhau, giống nhau,
rất khó biểu đạt, những gì độc nhất vô nhị. Các phương pháp này có thể
phản ánh những hiện tượng dễ thay đổi hoặc toàn vẹn của văn hóa, nhưng
thật khó xác định hình thức của bản thân tính hay thay đổi và tính toàn
vẹn đó.
Nhóm
các phương pháp thứ hai, ngược lại, dựa vào thế mạnh của trừu tượng hóa
khách quan, giải quyết tốt hơn loại nhiệm vụ biểu lộ rõ cái chung nhất,
cái toàn thể gắn với nhau về mặt chức năng bằng cách phân tích các cấu
trúc điều chỉnh phân tầng. Các phương pháp đó có hiệu quả tốt nhất với
các đơn vị văn hóa trung mô và cho phép nghiên cứu những gì đã được phân
hóa, chia tách, đã có hình thức biểu hiện rõ ràng, nhưng rất khó cấp
cho hình thức đó một nội dung nhân văn mang tính cá nhân, độc đáo, vốn
hết sức quan trọng trong văn hóa.
Bên
cạnh đó, khi sử dụng các phương pháp này hay khác cũng không thể đưa ra
một ranh giới rõ rệt giữa chủ thể của phép phân tích với khách thể được
nghiên cứu. Đặc tính đó liên kết tất cả các phương pháp phân tích xã
hội và phân tích nhân văn lại, phân biệt chúng với các phương pháp của
khoa học tự nhiên, của toán học, kỹ thuật ứng dụng, mà việc sử dụng
chúng có nền tảng vững chắc dựa trên thể thức giải thích và hầu như
không quan tâm lắm đến thể thức thấu hiểu. M. Weber là một trong những
người đầu tiên chú ý đến đặc điểm vừa nêu của các khoa học về xã hội và
văn hóa, nơi không thể chia tách khách thể và chủ thể của việc phân
tích. Vì thế ông cho rằng các khoa học này cần sử dụng đồng thời cả
phương pháp thấu hiểu lẫn phương pháp giải thích. Cái thể thức có thể
liên kết chúng làm một được M. Weber gọi là "sự thấu hiểu có giải
thích". Từ đó việc công nhận xã hội và văn hóa là những đối tượng đặc
biệt của phân tích khoa học và đòi hỏi những phương pháp đặc biệt trên
phương diện tổng hợp, thường xuyên được đề cập tới ở nước ngoài trong
khuôn khổ các khuynh hướng khoa học như xã hội học thấu hiểu (Ph.
Znaneski, U. Tomas…), hiện tượng học (A. Sius …), xã hội học văn hóa
(Ph.Kh. Tenbruk, P.Bourdier…), và trong khoa học Nga là những người bênh
vực văn hóa học xã hội và xã hội học văn hóa. Trong khuôn khổ các
trường phái và khuynh hướng nghiên cứu văn hóa vừa nêu, ở những thập
niên gần đây xuất hiện nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu muốn khắc phục
những điểm hạn chế của cả cách mô tả dân tộc học, lẫn chủ nghĩa hình
thức của các phương pháp cấu trúc chức năng và hình thành những phương
pháp phân tích bằng con đường thấu hiểu văn hóa, cho phép chuyển thành
sự diễn giải xã hội học các tư liệu lịch sử văn hóa.
Cách
đặt vấn đề về sự cần thiết giải quyết các nhiệm vụ phức tạp như vậy đã
được chuẩn bị bằng cả một thời kỳ trước đó trong sự phát triển của tri
thức văn hóa học: trong nó in rõ dấu ấn của một loạt giai đoạn tuần tự,
trong khuôn khổ của chúng, các phương pháp đặc thù của phân tích văn hóa
đã tạo dựng và hình thành nên các mô hình nhận thức nhất định.
Giai
đoạn đầu tiên trong phân tích văn hóa một dân tộc hoặc một thời kỳ lịch
sử xa xôi nào đó được phát triển trong khuôn khổ giải quyết các vấn đề
nhân văn của tư liệu, chủ yếu mang tính chất mô tả kinh nghiệm. Ở giai
đoạn này, các phương pháp được sử dụng cho phép các nhà nghiên cứu tháo
gỡ những rào cản "không hiểu" thời đại khác hoặc nền văn hóa khác. Ở
đây, việc sử dụng các phương pháp phân tích khác nhau là nhằm hướng tới
làm rõ các chứng cớ để giải thích và đạt tới cấp độ lý luận. Đồng thời,
được tạo dựng và được phổ biến là mô hình phân loại và mô hình miêu tả
để nhận biết văn hóa. Các mô hình này chỉ đưa ra những mô tả cấu hình
hoặc mô tả nền văn hóa như những chỉnh thể mà không chỉ rõ được mối quan
hệ nhân quả và các chức năng của hiện tượng được nghiên cứu.
Giai
đoạn tiếp theo sử dụng các phương pháp tiếp cận văn hóa học so sánh các
nền văn hóa khác nhau, điều này đòi hỏi phải sử dụng một quang phổ rộng
hơn các phương tiện phân tích và khái niệm chuyên ngành đặc thù. Đồng
thời, các nhà văn hóa học thường hay sử dụng các phương pháp của triết
học, lôgíc học, xã hội học, ngôn ngữ học, tâm lý học, ký hiệu học, sử
học, cũng như các thể thức phân tích trên phương diện liên ngành - cách
tiếp cận cấu trúc, chức năng, mô hình hóa,… Trong khuôn khổ của cấp độ
phân tích này, các mô tả đặc tính và mô tả văn hóa riêng lẻ dường như
vẫn còn tản mạn, chưa gắn kết với nhau do sự không đồng loại của chúng. Ở
giai đoạn này, các mô hình nhận thức văn hóa được xây dựng là mô hình
liên tưởng và mô hình chức năng.
Một
giai đoạn khác của phân tích văn hóa gắn liền với việc làm lộ rõ các
đặc điểm tổng hợp, chủ đạo, quyết định của văn hóa: cơ cấu cốt lõi và
tính ổn định của nó, các cấu trúc và khuôn mẫu quan trọng nhất (những
đặc điểm thế giới quan, các thiết chế truyền thống,…). Còn một cấp độ
phân tích văn hóa nữa gắn với việc tìm hiểu và giải thích các xu hướng
và đặc điểm của văn hóa dường như đối lập với cơ cấu cốt lõi, với các hệ
hình quan trọng nhất của nó, nhưng không xuất hiện như những gì xa lạ
đối với các hệ hình đó, mà tương quan với chúng theo một cách thức xác
định (đó có thể là các tà thuyết, các cuộc cách mạng cực đoan, các hiện
tượng phản văn hóa,…). Ở hai bình diện phân tích cuối cùng, xem xét văn
hóa trên cấp độ những biến đổi năng động qui mô lớn của nó và sự phát
triển của văn minh nói chung không thể không sử dụng các phương pháp của
khoa học nhân văn, vốn có khả năng khái quát lớn, khả năng nhận thức
lớn để nhìn thấy đằng sau các hiện tượng cụ thể bên ngoài của văn hóa
các mối quan hệ sâu xa và các sơ đồ ý thức. ở cấp độ phân tích văn hóa
này xuất hiện nhu cầu xây dựng các mô hình hệ thống, cũng như các mô
hình động trong nhận biết văn hóa.
Cuối
cùng, có một nhóm các phương pháp phân tích văn hóa trong khuôn khổ các
trường phái và khuynh hướng khoa học, trước hết là thuyết tiến hóa,
thuyết khuyếch tán, cấu trúc luận, chức năng luận, nhân học hành động,
nhân học nhận thức,… Như vậy, trong tri thức văn hóa học chỉ sử dụng các
phương pháp có khả năng giải quyết các nhiệm vụ ở cấp độ nhận thức phức
hợp, có thể kết hợp sự lựa chọn của các phương pháp hoàn toàn khác
nhau, lấy từ các hệ hình khái niệm lý thuyết khác nhau. Mỗi một phương
pháp sẽ mất đi tính chất tự thân trọn vẹn trước kia, và tiếp nhận những
đặc tính bổ sung tương hỗ, sự liên hợp đặc biệt với các nguyên tắc nhận
thức, các thể thức và thủ pháp phân tích khác nhau. Điều đó cho phép có
được những nghiên cứu văn hóa học phản ánh đúng cái đối tượng siêu phức
tạp của nó là văn hóa.
Từ Thị Loan dịch
Nguồn: Bách khoa toàn thư văn hóa học thế kỷ XX