23/05/2018, 14:34

Các giống gà ở nước ta

Với lịch sử hàng ngàn năm làm nông nghiệp, nhân dân ta cũng tạo ra được nhiều các giống gà có giá trị còn lại đến ngày nay. Sau đây là một vài giống tiêu biểu. Giống gà Ri Là giống gà phổ biến nhất mọi vùng, mọi miền. Tùy theo sự chọn lọc trong quá trình chăn nuôi mà giống này hình thành nên ...

Với lịch sử hàng ngàn năm làm nông nghiệp, nhân dân ta cũng tạo ra được nhiều các giống gà có giá trị còn lại đến ngày nay. Sau đây là một vài giống tiêu biểu.

Giống gà Ri

Là giống gà phổ biến nhất mọi vùng, mọi miền. Tùy theo sự chọn lọc trong quá trình chăn nuôi mà giống này hình thành nên các dòng gà Ri có thể hình, màu sắc khác nhau ít nhiều ở mỗi địa Phương.

Thông thường và phổ biến nhất thì gà mái có lông màu vàng và nâu nhạt, điểm các đốm đen ở cổ, đầu cánh và chót đuôi. Gà trống có bộ lông sặc sỡ nhiều màu nhất là lông cổ và đuôi chiếm ưu thế nhất là lông màu vàng đậm và tía sau đó là vàng nhạt hoặc trắng ở cổ. Rất ít khi thấy gà Ri có màu lông thuần nhất. ga-riGà ri

Gà con mọc lông sớm chỉ hơn 1 tháng gà đã đầy đủ lông như gà trưởng thành. Gà Ri là giống nhẹ cân, gà mái: 1,2 – 1,8 kg, gà trống: 1,8 – 2,3 kg. Gà trống thiến nuôi lâu có thể đạt 2,5 kg hoặc hơn. Gà Ri có dáng thanh, chân nhỏ, đầu nhỏ, cổ và lưng dài, ngực sâu (gà mái chân rất thấp), mỏ vàng, vẩy chân vàng (có khi đen – nhất là gà miền núi). Sức đẻ: 90 – 120 trứng/mái/năm. Khối lượng trứng bình quân: 38 – 42 gam. Nếu nuôi bán chăn thả, sản lượng trứng gà Ri có thể đạt 125 – 130 quả/ mái/năm.

Gà Ri thành thục sinh dục sớm (14,1 ngày). Gà có đặc điểm nổi bật là cần cù, chịu khó kiếm ăn, sức chống chịu với thời tiết, bệnh tật cao, nuôi con khéo, thịt có hương vị thơm ngon nhất là gà mái tơ. Do các ưu và nhược điểm ở trên, gà Ri thích hợp với chế độ dưới chăn thả, hoặc bán chăn thả. Trong tương lai khi mà ngành gia cầm nuôi các giống cao sản phát triển, thì gà Ri có thể sẽ được coi như là một đặc sản. Gà Văn phú

Giống gà Văn Phú

Là giống gà địa phương được hình thành từ lâu đời ở xã Văn Phú, xã Sai Ngã, huyện Cẩm Khê, tỉnh Vĩnh Phú nay là tỉnh Phú Thọ. Hiện nay gà phân bố không rộng và phần lớn pha tạp. Giống gà này được hình thành trong vùng đất đai màu mỡ ven sông Hồng, hàng năm bị lũ lụt đe dọa, địa hình Trung du, đồi thấp xen kẽ với đất trồng trọt. Nhiệt độ trong năm chênh lệch không lớn. Tháng thấp nhất (tháng 1) là 17ºC và tháng cao nhất (tháng 7,8) là 29ºC, ẩm độ biến thiên từ 83 – 86%.

Chính điều kiện khí hậu trên kết hợp với chọn lọc và chăm sóc đã tạo nên giống gà Văn Phú. Do có tập quán thi gà, nên từ lúc gà mới nở đã được chọn lọc ngay. Gà Văn Phú lông trên lưng màu đen, nhưng gốc trắng, vùng bụng, đùi có màu tro nhạt, mào phát triển.

Trước đây nhờ có sự chọn lọc và nuôi dưỡng tốt nên nhân dân ta ở vùng này đã tạo ra giống gà đen có ngoại hình đẹp, cân đối, đầu vừa phải. Mào và tích tai phát triển, màu đỏ mào đơn 5 -6 khía dựng đứng, chân cao, thanh, có 2 – 3 hàng vẩy.

Khi trưởng thành gà cân nặng 3,5 kg. Gà Văn Phú vừa có khả năng cho thịt vừa có khả năng cho trứng. Sức đẻ 60 – 65 trứng/mái/năm. Khối lượng trứng trung bình 50 – 55 gam. Gà Văn Phú và nuôi con vụng về, tỷ lệ nở và tỷ nuôi sống gà con thấp. Ngày nay giống gà này còn lại không nhiều. Gà Đông Cảo

Giống gà Đông Cảo

Gà có nguồn gốc từ thôn Đông Cảo, xã Cấp Tiến, huyện Khoái Châu, Hải Hưng nay là Hưng Yên. Những năm 1945 – 1947 gà phát triển mạnh. Hiện nay gà bị lai tạp nhiều. Trước đây gà Đông Cảo được chọn lọc nghiêm ngặt phục vụ cho lễ hội. Gà có tầm vóc to thô, cổ mình ngắn, ngực bụng ít lông, da đỏ, chân, đầu to, mào nụ. Cơ thể có dáng khối vuông. Tính tình gà hiền lành, chậm chạp.

Con trống có màu lông xanh đen điểm sắc tím ở cánh, cổ. Con mái có màu lông vàng nhạt. Lúc trưởng thành con trống cân nặng 3,5 – 4,0 kg, con mái 2,5 – 3,0 kg. Sức đẻ trứng bình quân 60 – 70 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 50 – 60 gam.

Gà ấp và nuôi con vụng. Tỷ lệ ấp nở thấp. Gà Đông Cảo thiên về hướng thịt rõ rệt, có thể lai với các giống gà khác tạo gà nuôi thịt. Giống gà này được nuôi nhiều ở Hưng Yên và Hải Dương. Gà Hồ

Giống gà Hồ

Giống gà này có ở làng Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Gà Hồ phân bố không rộng và được hình thành trong điều kiện tự nhiên của Bắc Ninh. Nhiệt độ trung bình 23,5ºC. Lượng mưa bình quân 1500 mm.

Thuận Thành thuộc vùng hạ lưu sông Cầu, đất đai màu mỡ nên có năng suất lúa cao. Điều kiện này ảnh hưởng tốt đến quá trình hình thành gà Hồ. Mặt khác tập quán chăn nuôi ở đây có khá lâu đời, các hội thi gà trước đây hàng năm vẫn diễn ra. Tiêu chuẩn chọn lọc để có gà to, đẹp, hiền lành, rất nghiêm ngặt.

Bộ lông gà Hồ trống điển hình có 3 màu: sắc tía ở cổ, chỗ tiếp giáp giữa lưng và đuôi có màu chín, xen kẽ màu xanh biếc ở lưng và cánh. Đầu to, dẹt, mào nụ tích tai dài và màu đỏ, mỏ ngắn, mắt nâu, ngực nở, lườn dài, bụng tròn, chân cao to, xù xì, có 2 – 4 hàng vảy. Gà mái có tầm vóc cân đối mào nụ hoặc mào xoăn, lông màu nâu nhạt toàn thân. Lúc trưởng thành con trống cân nặng 3,5 – 4,0 kg, con mái: 3,0 3,5 kg. Gà đẻ muộn thường sau 7 – 8 tháng mới đẻ quả trứng đầu tiên. Sức đẻ 50 – 60 trứng/mái/năm. Tỷ lệ ấp nở thấp.

Giống gà Mía

Gà được hình thành lâu đời ở xã Phùng Hưng, huyện Tùng Thiện, Hà Tây (nay là xã Đường Lâm, Ba Vì, Hà Tây).

Gà Mía phát triển mạnh vào những năm 1952 – 1953. Hiện nay giống gà thuần rất ít, hầu như pha tạp nhiều như các giống gà khác. Gà Mía được hình thành ở vùng Trung du, đồi núi thấp, xen kẽ đất canh tác. Nhiệt độ chênh lệch không lớn lắm tháng thấp nhất là 16,2ºC, tháng cao nhất 28,8ºC. Ẩm độ 81 – 87%. Lượng mưa tập trung nhiều vào tháng 6, 7, 8. Ngoài điều kiện tự nhiên, ở đây có tập quán thi gà ở chợ Mía đã ảnh hưởng đến việc chọn lọc gà. Gà Mía to nhưng thiếu cân đối. Mình ngắn, ngực rộng nhưng không sâu, mào đơn, 5 khía răng cưa, tích tai phát triển. Dáng đi nhanh nhẹn hơn gà Hồ, Chân màu vàng có 3 hàng vảy.

Gà trống tai có phủ một lớp lông đen, lông thường có 3 màu: Mận chín, đỏ tía và màu xanh đen. Gà mái đầu nhỏ, cổ thanh, ngực nông, mào đơn 4 khía, lông có màn nâu thâm, hay trắng ngà. Gà sinh trưởng nhanh, thành thục muộn sau 6 tháng mới đẻ. Lúc trưởng thành gà trống nặng 3,0 – 3,5 kg, gà mái 2,6 – 3,0 kg. Sức đẻ trứng 70 – 80quả/mái/năm. Khối lượng trứng 50 – 58 gam. Tỷ lệ trứng có phôi và tỷ lệ nở thấp. Gà có đặc điểm mọc lông chậm (gà mái đến 12 tuần tuổi và gà trống đến 15 tuần tuổi mới mọc phủ kín lông).

Các giống gà Hồ, Đông Cảo, Mía tuy có năng suất thịt cao nhưng không phổ biến rộng được (chỉ quanh quẩn ở một số địa phương gần nơi xuất xứ) do khả năng sinh sản kém, tính năng động và sức chống chịu kém thua gà Ri.

Ngoài các giống gà nội kể trên, ở một số địa phương còn một số giống gà khác. Ở các tỉnh Nam Bộ có giống lông trắng, mỏ, chân đen), vùng đồng bào H’ Mông có giống gà Mèo, nhưng giá trị kinh tế không có gì đặc biệt và ít phổ biến. Các giông gà khác đáng chú ý chỉ có giống gà Tre (ở Nam Bộ) là giống gà cảnh có thân hình bé, đuôi dài, lông màu xám lẫn màu trắng. Ngoài ra còn có một số giống như: giống gà ta vàng, tàu vàng, , gà ta lai, gà miên…

 

0