Các chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
Thuế là một công cụ Nhà nước dùng để đánh vào các loại hàng hoá và dịch vụ. Tác động của thuế tới hoạt động xuất khẩu là tác động xuôi chiều, khi thuế thấp kích thích xuất khẩu (thuế ưu đãi). Phần lớn các nước hiện nay có xu hướng ...
Thuế là một công cụ Nhà nước dùng để đánh vào các loại hàng hoá và dịch vụ.
Tác động của thuế tới hoạt động xuất khẩu là tác động xuôi chiều, khi thuế thấp kích thích xuất khẩu (thuế ưu đãi). Phần lớn các nước hiện nay có xu hướng khuyến khích xuất khẩu nên việc đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu hay đầu vào dùng để xuất khẩu đều được hưởng những ưu đãi nhất định. Đặc biệt là ở Việt Nam khi mà thiếu ngoại tệ để nhập công nghệ mới, cải tiến kỹ thuật thì những chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu được các nhà lập chính sách cân nhắc rất kỹ sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia hoạt động xuất khẩu. Cụ thể là :
Điều 3 của luật thuế tiêu thụ đặc biệt(TTĐB) quy định đối tượng không chịu thuế TTĐB là hàng hoá quy định tại khoản 1 điều 1 luật thuế TTĐB khi cơ sở sản xuất gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán, uỷ thác cho các cơ sở kinh doanh xuất khẩu .
Hiện nay do chính sách ưu tiên xuất khẩu nên hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu không phải là đối tượng chịu thuế TTĐB. Như vậy ngay trong việc thực hiện chính sách và ban hành chính sách ưu tiên xuất khẩu cũng có những vấn đề đặt ra:
Hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu, thoát ly khỏi ràng buộc của thuế TTĐB do người tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ Việt Nam Nhà nước không điều chỉnh tiêu dùng của đối tượng này.
Mặt khác việc xác định hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu thuộc đối tượng chịu thuế nào?
Ngoài việc, xác định đối tượng chịu thuế đối với hàng hoá xuất khẩu đã có những ưu đãi thì việc hoàn thuế với hàng hoá xuất khẩu cũng được khuyến khích.
Luật thuế giá trị gia tăng quy định việc áp dụng thuế suất 0% không theo mặt hàng hay nhóm hàng như các mức thuế suất 5%, 10% hoặc 20% được quy định theo mục đích và hàng hoá xuất khẩu. Luật thuế giá trị gia tăng quy định việc áp dụng thuế suất 0% không theo mặt hàng hay nhóm hàng như các mức thuế suất 5%, 10% hoặc 20% được quy định theo mục đích và hàng hoá xuất khẩu. Điều này có nghĩa là bất cứ mặt hàng nào thuộc đối tượng chịu thuế VAT khi đem xuất khẩu đều được áp dụng thuế suất 0% và được hoàn thuế VAT đầu vào. Như vậy cùng với việc khuyến khích xuất khẩu, kích thích sản xuất cùng với vấn đề giải quyết việc làm, hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu được bình đẳng với hàng hoá khác khi xuất khẩu .
Cũng giống như các biến số kinh tế vĩ mô khác, tỷ giá hối đoái rất nhạy cảm với sự thay đổi của nó có những tác động rất phức tạp, ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo những tác động khác nhau thậm chí trái ngược nhau. Đưa đến những kết quả khó lường trước, đụng chạm không chỉ tới xuất nhập khẩu, cán cân thương mại mà còn tới mặt bằng giá cả, lạm phát và tiền lương thực tế, đầu tư và vay nợ nước ngoài, ngân sách nhà nước ,cán cân thanh toán quốc tế cũng như sự ổn định kinh tế vĩ mô nói chung .
Ngay từ 1996, thực hiên chính sách đổi mới toàn diện và sâu sắc, nước ta có những điều chỉnh lại tỷ giá một cách căn bản. Hoạt động ngoại thương phát triển mạnh, kim ngạch xuất khẩu 2000 gấp hơn 4 lần so với 1990, quan hệ với các nước trên thế giới mở rộng. Với sự phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống nhất tỉ giá chính thức với thị trường, xoá bỏ cơ bản hệ thống tỉ giá cũ quá phức tạp ... thì cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tỉ giá của Việt Nam đã có bước chuyển biến rất căn bản sang cơ chế thị trường, thoát khỏi trạng thái thụ động để trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế mở.
Trong giai đoạn 1992-1996, ổn định tỉ giá hối đoái quan trọng hơn là tăng giá để khuyến khích xuất khẩu là điều cốt lõi và cũng là thành công của chính sách tỷ giá trong giai đoạn này biểu hiện kim ngạch xuất khẩu liên tục qua các năm tăng cao từ 20-30%/năm.
Sự ra đời của thị trường ngoại tệ cho phép 7 ngoại tệ được sử dụng để giao dịch: USD, DEM, GBP, FF, JPY, HKD, VND, cùng với việc ra đời 2 trung tâm giao dịch ngoại tệ ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là bước tiến đáng kể theo hướng thị trường gián tiếp kích thích xuất khẩu thông qua tạo mặt bằng giá hợp lý hơn. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, xuất khẩu là một trong những nguồn cung ngoại tệ chủ chốt song cung cầu ngoại tệ luôn luôn căng thẳng và VND không có khả năng chuyển đổi hoàn toàn nên trong thời gian tới vẫn tập chung ngoại tệ vào các ngân hàng, để ngân hàng thống nhất ngoại hối. Đồng thời tự do hoá quyền sở hữu và sử dụng ngoại tệ, đặt ngoại tệ thành một hàng hoá đặc biệt được trao đổi trên thị trường. Đẩy mạnh các biện pháp khuyến khích không tiêu dùng tiền mặt trong thanh toán ngoại tệ, mở rộng tiến tới tự do hoá mở và sử dụng tài khoản nước ngoài và kinh tế trong nước. Để kích thích xuất khẩu giảm dần tiến tới xoá bỏ việc bảo đảm cân đối ngoại tệ từ phía chính phủ. Mở rộng quyền sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu, tăng cường quyền hạn và vai trò của ngân sách Nhà nước trong dịch vụ xuất khẩu. Để đảm bảo cho nhà xuất khẩu một mặt cần điều chỉnh giá mua ngoại tệ linh hoạt không để doanh nghiệp bị thua lỗ do biến động tỷ giá. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu mở, sử dụng, chuyển cũng như đóng tài khoản của mình.
Trong dài hạn, mục tiêu là khả năng chuyển đổi hoàn toàn của Việt Nam và một tỷ giá thích hợp có tác dụng khuyến khích tăng trưởng kinh tế và khuyến khích xuất khẩu. Khi VND có khả năng chuyển đổi hoàn toàn thì quy định về ngoại hố nói chung về bản tệ nói riêng sẽ được dần dần nới lỏng và các nhà xuất khẩu có toàn quyền sở hữu và chủ động sử dụng số ngoại tệ của mình theo cơ chế thị trường.
Tóm lại trong thời gian tới vẫn tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá hợp lý để ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt, phù hợp cung cầu không gây biến động lớn cho nền kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu trong ngắn hạn và trung hạn không đặt vấn đề kích thích xuất khẩu bằng công cụ phá giá và nới lỏng quản lý ngoại hối mà chỉ dừng lại ở chính sách tỷ giá không cản trở hay bóp chết xuất khẩu .
Đầu tư là hoạt động bỏ vốn và làm tăng quy mô của tài sản quốc gia.
Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư trong nước và đầu te nước ngoài. Đối với đầu tư trong nước đặc biệt là những doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng hoá xuất khẩu được Nhà nước khuyến khích xuất khẩu nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh thông qua vận hành quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ bảo lãnh xuất khẩu cũng như các biện pháp hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm...
Đối với khu vực đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hội nhập kinh tế của một đất nước, là một cầu nối quan trọng giữa kinh tế nội địa với nền kinh tế toàn cầu. Do đó, tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là giải pháp quan trọng húc đẩy xuất khẩu. Trong đề án này em xin đưa ra giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy xuất khẩu .
Trước tiên, cần phải khẳng định rằng, trong thời gian qua khu vực có vồn đầu tư nước ngoài cung cấp cho xã hội khối lượng hàng hoá ngày càng lớn, nhất là hàng hoá xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Cụ thể là: Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 1991 là 52 triệu USD, năm 1995 tăng lên 440 triệu, năm 1996 đạt 786 triệu, năm 1998 đạt 1,5 tỷ(chiếm khoảng 15% tổng kim nghách xuất khẩu cả nước) chưa kể dầu thô. Trong 10 năm qua đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội và đóng góp ngày càng cao và tăng kim nghạch xuất khẩu cũng như đóng góp vào GDP: năm 1992 là 2%, đến năm 1998 là 8,6%. Trong những năm tới Nhà nước liên tục có những điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài nhằm phát huy vai trò của nố đối với hoạt động xuất khẩu thông qua: Bổ sung nguồn vốn cho doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở rộng thị trường...
Như vậy có thể thấy rằng gia tăng quy mô và nâng cao hiệu quả sử dung vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm đạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu .
Hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động thuỷ sản nói riêng đều “khát vốn”. Như ta đã biết, ngành khai thác và chế biến thuỷ sản có tiềm năng phát triển rất lớn mà quy mô vốn đầu tư mới chỉ đáp ứng được 20%. Trong đó chưa kể đầu tư còn chưa đồng bộ mang nặng tính tự phát khiến dự án thuỷ sản chưa phát huy được hiệu quả.
Có lẽ việc quy hoạch vùng nuôi còn dang dở nên các tổ chức cho vay tín dụng tỏ ra khá e dè trong việc thẩm định dự án vay vốn để nuôi trồng. Đây là nguyên nhân đầu tiên khiến cho khu vực nuôi thuỷ sản “khát vốn”
Hiện nay, nhiều tỉnh chưa có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội hoặc có nhưng lại không cập nhật với thực tiễn cộng với việc chưanh chấp và thiếu phân định rõ ràng giữa nuôi trồng thuỷ sản và đất nông nghiệp gây trở ngại klhông nhỏ cho quá trình xét duyệt cấp vốn.
Theo các chuyên gia thuỷ sản, trong khi vốn trong nước còn hạn chế thì việc thu hút thêm nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài sẽ giúp ngành thuỷ sản thành công.
Theo ông Nguyễn Trọng Hồng - Thứ trưởng bộ thuỷ sản việc huy động 35.000 tỷ đồng vào thuỷ sản là rất khó khăn bởi vì nhìn vào khoảng thời gian 86-98 tỷ trọng vốn đầu tư cho thuỷ sản chỉ được 12,49% tương đương với 974 tỷ đồng. Trong khi đó có rất ít doanh nghiệp đầu tư cho đổi mới công nghệ, sản phẩm có giá trị gia tăng mới chỉ chiếm 6 -7% kim ngạch xuất khẩu. Trình độ bảo quản nguyên liệu hạn chế nên việc thất thoát sau thu hoạch là vẫn cao. Đó là lý do giải thích vì sao Việt Nam cho đến nay chỉ có 35 doanh nghiệp đăng ký nâng cao cơ sở chế biến theo HACCP và chỉ có 27 doanh nghiệp được công nhận sản xuất hàng hoá đạt yêu cầu thị trường EU
Giải quyết vấn đề vấn đề vốn thứ trưởng bộ thuỷ sản cho rằng: chỉ nhà nước mới giám đầu tư vốn vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đòi hỏi vốn lớn, khó và lâu thu hồi vốn nh cầu cảng, bến cá…, mua sắm thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học điều tra nguồn lợi đào tạo khuyến ngư.
Từ nay đến 2010 nên chăng bộ thuỷ sản hoàn thành hàng loạt công trình hạ tầng dịch vụ như cầu cảng, bến đậu, hệ thống cấp dầu, nước ngọt, kho chứa tại các tuyến bờ, tuyến đảo. Đồng thời vốn ngân sách nhà nước cũng sẽ đóng góp chủ lực để khôi phục và nâng cấp các bến cá địa phương ở các tỉnh ven biển như Hòn Gai, Đồ Sơn, Ninh Cơ… cũng như nạo vét các cửa sông để thuyền bè ra vào được dễ dàng.
Khái niệm xúc tiến thương mại được coi là mới ở những nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nhìn từ góc độ nghiệp vụ kinh doanh quốc tế xúc tiến thương mại có thể là xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu và phát triển thương mại nội địa. Xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận của xúc tiến thương mại nhưng do tầm quan trọng của nó nên nhiều khi người ta thường nói tới như một khái niện riêng biệt. Xúc tiến xuất khẩu gồm ba nhóm yếu tố sau:
- Kết cấu hạ tầng cơ bản.
- Chế độ tỷ giá hối đoái, chính sách lãi suất và những biện pháp khuyến khích nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho xuất khaảu.
- Biện pháp công cụ cụ thể để một nớc tham gia thành công vào thị trường quốc tế.
Quá trình phát triển xuất khẩu ở Việt Nam, vấn đề kết cấu hạ tầng còn thiếu trên mọi lĩnh vực đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc đã cản trở rất nhiều cho hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng. Hầu hết sản phẩm hải sản khai thác đều có tính tơng đồng cao. Do đó sức cạnh tranh của mặt hàng với công nghệ bảo quản sau thu hoạch sẽ quyết định phần lớn ưu thế trên thị trường quốc tế. Trong khi đó ở Việt Nam bảo quản thuỷ sản chủ yếu trong hầm đá và các mắt tre…do đó gây ra sự giảm sút chất dinh dưỡng dẫn đến giá cả bị tụt xuống. Mặt khác, đối với khai thác thuỷ sản ở nước ta, phương tiện đánh bắt xa bờ còn hết sức thô sơ, lạc hậu và thiếu thốn cho nên ảnh hưởng không nhỏ tới việc bảo quản sau thu hoạch.
Vai trò to lớn của kết cấu hạ tầng đòi hỏi chúng ta phải thành lập khu chế xuất để tạo ra nguồn xuất khẩu sản phẩm chế biến. Việc cung cấp một số kết cấu hạ tầng trong các khu vực địa lý được phân định rõ theo các khu chế xuất có thể góp phần xúc tiến xuất khẩu trong một thời gian tương đối ngắn thông qua khả năng cung cấp cho các nhà công nghiệp Việt Nam nhiều kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn về quản lý, marketing, thu hút công nghệ,…Tuy nhiên lợi ích của khu chế xuất mang lại không được như người ta mong đợi nên không coi chúng là biện pháp xúc tiến xuất khẩu. Ở Việt Nam, chúng ta áp dụng biện pháp xúc tiến xuất khẩu sau:
- Thứ nhất, về tỷ giá hối đoái: Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thống nhất. Ngày 27/2/1998, thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt nam ra quyết định 45/QĐ-NH về việc quy định nguyên tắc ấn định tỷ giá mua, bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ trong phạm vi biên độ dao động
± 5% so với tỷ giá chính thức do thống đốc ngân hàng công bố hàng ngày. theo quyết định 16-1998 QĐNHNN7 ra ngày 10/1/1998 thì biên độ này là ±10 so với tỷ giá chính thức. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu đẩy mạnh công tác xuất khẩu ở doanh nghiệp mình.
- Thứ hai, về tín dụng xuất khẩu được thông qua ngân hàng thương mại. Việc mở rộng quyền cấp tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước của các ngân hàng thương mại là một bước tiến lớn trong hệ thống ngân hàng. Chủ trương chuyển hoá từ cho vay nhập khẩu sang cho vay đầu tư xuất khẩu của các ngân hàng góp phần nâng cao hệ số sử dụng vốn.
Để khắc phục vấn đề khát vốn cho doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam đó là một hình thức tín dụng thuê mua ra đời. Công ty cho thuê tài chính quốc tế tại Việt Nam ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp không đủ vốn vẫn có thể thuê đợc máy móc, thiết bị hiện đại để thay đổi công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.
- Thứ ba về chính sách lãi suất: Sự điều chỉnh linh hoạt chính sách lãi suất của ngân hàng là một việc làm tích cực giúp doanh nghiệp xuất khẩu mạnh dạn vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu, hạ giá thành nhờ lợi thế quy mô, và nâng cao khả năng cạnh trang của hàng Việt Nam.
Tóm lại, trong 10 năm tới GDP nước ta phát triển tăng chí ít là gấp đôi và đến năm 20 về cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ này, xuất khẩu chiếm vị trí cực kỳ quan trọng, tốc độ phát triển của nó chí ít phải gấp đôi tốc độ tăng trưởng của GDP, đồng thời hạn chế đi tới chấm dứt tình trạng nhập siêu, cân bằng cán cân thương mại quốc tế. Để đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới có ba khâu then chốt gắn quyện với nhau là đổi mới cơ cấu mặt hàng, mở rộng thị trường và nâng cao sức cạnh tranh.
Về cơ cấu mặt hàng thuận chiều với cơ cấu kinh tế thế giới, bám sát tín hiệu thị trường, phù hợp với nhu cầu không ngừng của người tiêu dùng. Tức là chúng ta sản xuất những mặt hàng xuất khẩu mà thiên hạ cần chứ không chỉ làm ra những gì ta có. Theo đó tỷ trọng hàng thô và sơ chế không ngừng giảm tương đối, sản phẩm chế biến, chế tạo tăng mạnh, sản phẩm của các ngành công nghệ cao, hàm lượng chất xám nhiều phải chiếm vị trí thoả đáng.
Tuy nhiên đi đôi với phương châm trên cần khai thác mọi nguồn lực để đẩy mạnh xuất khẩu theo phương châm “nặng nhặt, chặt bị”. Bởi quá trình chuyển dịch cơ cấu không thể hoàn thành trong một sớm một chiều, hơn nữa lao động nước ta còn dư thừa nhiều, vấn đề việc làm còn bức xúc.
Bên cạnh đó cơ cấu hàng nhập cần duy trì theo hướng chủ yếu nhập công nghệ, vật tư phục vụ sản xuất trong đó chú trọng nhập khẩu công nghệ nguồn. Nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như chất lượng thiết bị và vật tư nội địa.
Vấn đề mở rộng thị trường cần tính đến những phương châm sau:
- Một là, tìm mọi cách không ngừng mở rộng thị trường cả về số lượng các nước và bạn hàng ta có quan hệ lẫn khối lượng và giá trị hàng hoá ta có thể tiêu thụ được.
- Hai là, trong khi mở rộng tới mức tối đa thị trường cần kiên trì chính sách đa dạng hoá có trọng tâm, trọng điểm trước hết nhằm vào các thị trường có dung lượng lớn, khả năng thanh toán cao.
- Ba là, chủ động tích cực tìm kiếm thị trường và bạn hàng, khai thác thông tin chứ không thụ động ngồi nhìn.
- Bốn là, chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới bằng cạch đó tranh thủ những điều kiện thuận lợi như hàng rào thuế quan thấp. Các doanh nghiệp cần nhanh nhậy nắm bắt những cơ hội, thông qua cạnh tranh để trưởng thành nâng cao hiệu quả xản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên điều có ý nghĩa quyết định vẫn là nhu cầu không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả ba cấp độ: nhà nước, doanh nghiệp cũng như mặt hàng và dịch vụ.
Ở cấp độ nhà nước đó là sự ổn định về chính trị- xã hội, quan hệ quốc tế tốt đẹp, hành lang pháp lý hoàn chỉnh rõ ràng, minh bạch và theo phương hướng ổn định; bộ máy điều hành nhanh nhậy, cơ chế chính sách, các công cụ điều hành vĩ mô hợp lý, trong đó có lãi suất ngân hàng, tỷ giá hối đoái có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Nâng cao khả năng cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp là khả năng không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhanh nhậy nắm bắt tình hình cung - cầu (cả lượng lẫn chất) trên thị trường thế giới cả sản xuất và kinh doanh.
Ở cấp độ mặt hàng và loại hình dịch vụ thì khả năng cạnh tranh được thể hiện trước hết ở giá thành hạ, chất lượng cao, mẫu mã, bao bì phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng được tiếp thị rộng rãi.
Đương nhiên những nhân tố trên là quan trọng nhưng chưa phải là tất cả. Bên cạnh đó còn có chính sách đầu tư thích hợp, tổ chức kinh doanh phải bắt nhịp với thông lệ và những chuyển biến nhanh chóng trên thị trường thế giới, lựa chọn bồi dưỡng cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu thành thạo về nghiệp vụ, tinh thông về nghiệp vụ, ngoại ngữ và cảc các phương tiện kinh doanh hiện đại.