Các bộ phận của luật pháp
Trong nghĩa rộng, các bộ phận của luật pháp có thể phân chia trên cơ sở bên nào là bên có tố quyền. Một điều rất phổ biến là các lĩnh vực thực tế của áp dụng luật pháp có thể bao trùm nhiều bộ phận của luật pháp. Lĩnh vực của luật tư ...
Trong nghĩa rộng, các bộ phận của luật pháp có thể phân chia trên cơ sở bên nào là bên có tố quyền. Một điều rất phổ biến là các lĩnh vực thực tế của áp dụng luật pháp có thể bao trùm nhiều bộ phận của luật pháp.
Lĩnh vực của luật tư (luật dân sự) là hệ thống pháp lý liên quan đến các bộ luật điều chỉnh các quan hệ giữa các cá nhân hay pháp nhân (không nhà nước). Luật tư có thể coi như là luật dân sự mở rộng, nó không chỉ là hệ thống dân luật thịnh hành ở nhiều quốc gia mà còn bao gồm cả những gì có trong dời sống pháp luật của 1 cá nhân mà không có sự chi phối mạnh mẽ của Nhà nước như Hôn Nhân gia đình, thừa kế, thương mại (nói chung là các lĩnh vực mà các bên liên quan thiết lập theo THOẢ THUẬN là chính).
Luật tư quốc tế là sự mở rộng của luật tư để hướng dẫn cách xử sự, giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân hay pháp nhân thuộc các hệ thống tư pháp khác nhau (xuyên quốc gia). Nó bao gồm cả các hợp đồng thương mại như vận đơn (để vận chuyển) và các quyền cá nhân v.v đến thừa kế tài sản. Các thành phần quan trọng của luật tư quốc tế vẫn chưa được pháp điển hóa trong các điều khoản của các điều ước quốc tế (chẳng hạn lex situs - địa điểm thích hợp của quyền sở hữu tài sản) nhưng nói chung được công nhận tại các quốc gia và vì thế vẫn duy trì ở dạng luật tập quán.
Ví dụ: Khi ông A là người Viêt Nam đi du lịch sang Hoa kỳ, tại đây, chẳng may ông bị tai nạn giao thông, đưa vào bệnh viện, trước khi qua đời Ông di chúc miệng lại cho con trai của ông đang ở Việt Nam tài sản là 100.000USD mà ông mang đang gởi ở Ngân Hàng Thụy Sỹ. Như vậy luật pháp của nước nào sẽ được dùng để xử lý Di chúc này, đó là một trong rất nhiều lĩnh vực mà Luật Tư quốc tế điều chỉnh. Khi mà các quy định của luật tư quốc tế khác với các luật tư quốc gia thì ở đó tồn tại mâu thuẫn luật.
Trong nghĩa chung nhất thì lĩnh vực của luật công là các sắc luật trong hệ thống luật pháp đang đề cập tới nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa các tổ chức nhà nước ở các cấp độ khác nhau, cũng như điều chỉnh các tranh chấp giữa tổ chức nhà nước với các cá nhân, pháp nhân khác (phi-nhà nước) trong phạm vi quốc gia đó. Các tổ chức nhà nước sử dụng tố quyền để khởi kiện các cá nhân vì các vi phạm hình sự cũng như các cá nhân/pháp nhân vì các vi phạm luật pháp khác. Luật công có thể chia thành 3 tiểu thể loại: hiến pháp, luật hành chính và luật hình sự.
Tương tự, các cá nhân/pháp nhân cũng có thể khởi kiện các cơ quan, tổ chức nhà nước (công quyền) vì các tổn thất mà các tổ chức nhà nước đã gây ra cho họ. Nó bao gồm các nền tảng trên cơ sở các quy định, sắc luật được đưa ra vượt quá khả năng của họ hay dẫn đến các vi phạm các quyền cá nhân. Hai điểm đang đề cập này thông thường được bảo vệ bởi hiến pháp của quốc gia đó.
Luật tố tụng là lĩnh vực của luật pháp điều chỉnh quy trình tiến hành vụ việc pháp lý. Nó bao gồm các quy trình như ai có thể có quyền đệ đơn tới tòa, đệ đơn ra tòa như thế nào, cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tranh tụng. Luật tố tụng thường được coi như là luật "bổ trợ" do nó là các bộ luật liên quan đến việc các bộ luật khác được áp dụng như thế nào. Thông thường, nó bao gồm các quy định tố tụng dân sự và hình sự, nhưng nó có thể bao gồm cả luật điều chỉnh bằng cứ trong đó xác định cách thức như thế nào được phép sử dụng để xác nhận chứng cứ, cũng như luật liên quan đến các phương thức khắc phục hậu quả.
Khái niệm luật hình sự nói về những luật có chung tính chất là đề ra những hình phạt riêng biệt và nặng nề hơn bình thường nếu phạm vào. Tùy theo loại tội và thẩm quyền, sự trừng phạt (về mặt) hình sự bao gồm tử hình, giam giữ, bị quản thúc hoặc bị phạt vạ. Những tội cổ xưa như sát nhân (giết người), phản quốc .v.v. luật hình sự nơi nào cũng có. Nhưng cũng có nhiều tội ở nước này đưa vào luật hình sự mà nước khác thì không. Ngay cả trong các bộ luật đôi khi cũng không rõ ràng về ranh giới giữa dân sự và hình sự. Luật hình sự thường được tiến hành khởi tố bởi chính quyền, không giống như luật dân sự thường được tiến hành khởi tố bởi người dân hay các pháp nhân khác.
Luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ giữa các quốc gia, các thực thể quốc tế chưa đầy đủ ,lãnh thổ hoặc vùng lãnh thổ. Hay giữa các công dân của các quốc gia khác nhau cũng như giữa các tổ chức quốc tế. Hai nguồn cơ bản của luật quốc tế là các luật tập quán và các điều ước quốc tế.
Triết học luật là một nhánh của triết học và luật học trong đó nghiên cứu các vấn đè cơ bản của luật và hệ thống pháp lý, chẳng hạn như "Thế nào là luật?", "Cái gì là tiêu chuẩn của hiệu lực pháp lý?", "Cái gì là quan hệ giữa luật pháp và đạo đức?" và nhiều vấn đề tương tự khác.
Trong truyền thống phương Tây có một số trường phái tư tưởng về các nền tảng triết học của luật.Thứ nhất, đó là quy luật tự nhiên, trong đó người ta cố gắng miêu tả luật pháp như là các phẩm chất vốn có của loài người thu được từ tự nhiên. Thứ hai, đó là chủ nghĩa pháp lý thực chứng, trong đó người ta cho rằng luật pháp là sản phẩm thuần túy của con người được cộng đồng dùng để duy trì trật tự cộng đồng và không có liên hệ gì gọi là vốn có hay cần thiết giữa luật pháp và đạo đức. Thứ ba, đó là chủ nghĩa pháp lý duy thực, trong đó người ta tin rằng luật pháp là tập hợp tùy tiện các quy tắc chủ yếu được thiết lập bởi sự thiên vị và sở thích của các quan tòa và như thế nó là không hoàn hảo và đầy nhược điểm. Chủ nghĩa pháp lý biểu đạt là một học thuyết đương thời đề cập tới sự khác biệt giữa luật pháp và chủ nghĩa pháp lý thực chứng cũng như quy luật tự nhiên, trong đó người ta cho rằng luật pháp không phải là tập hợp của các dữ liệu đã cho, các quy ước hay các dữ kiện tự nhiên mà là những gì các nhà làm luật cố gắng xây dựng nên hay thu được từ thực tế cũng như không có sự phân chia giữa đạo đức và luật pháp (cho dù có khác biệt), nó không phải là nội tại trong tự nhiên và nó không thể tồn tại độc lập bên ngoài các thông lệ pháp lý.