Cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc (1975-1986)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) và thực hiện kế hoạch nhà nước năm năm (1976 - 1980) Tình hình Việt Nam sau năm 1975 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng ...
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) và thực hiện kế hoạch nhà nước năm năm (1976 - 1980)
Tình hình Việt Nam sau năm 1975 và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
- Tình hình Việt Nam sau năm 1975 và việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, cả nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước đã hoàn toàn độc lập, thống nhất, có tài nguyên phong phú, dồi dào sức lao động, nhân dân có truyền thống lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, có cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của miền Bắc sau 20 năm xây dựng... Đó là những thuận lợi để cả nước đi vào khắc phục hậu quả của mấy mươi năm chiến tranh để lại
Để xây dựng và phát triển đất nước trước mắt phải hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Tháng 8-1975, khi nhân dân hai miền đang tập trung sức lực khắc phục hậu quả của chiến tranh, ổn định tình hình tiến tới thống nhất đất nước về mặt nhà nước, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 24 của Đảng đã họp để quyết định những nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là Hội nghị chuẩn bị về mặt tư tưởng, tổ chức cho việc thống nhất nước nhà. Ngoài thống nhất đất nước về mặt nhà nước, Hội nghị còn khẳng định quyết tâm đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện chủ trương trên, Hội nghị hiệp thương chính trị của Đoàn đại biểu miền Bắc và Đoàn đại biểu miền Nam đã họp tại Sài Gòn từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975. Thông cáo của hội nghị khẳng định nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một; nước nhà cần được sớm thống nhất về mặt nhà nước; cần tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, bầu ra Quốc hội chung cho cả nước.
Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị Về việc lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước và giao trách nhiệm cho các cấp uỷ lãnh đạo cuộc bầu cử. Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước đã phấn khởi đi bỏ phiếu, đạt tỷ lệ 98,77% (miền Bắc 99,36%, miền Nam 98,39%). 492 đại biểu đã được bầu vào Quốc hội gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, đại biểu các tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc thiểu số và các tôn giáo.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước biểu thị ý chí của toàn dân ta xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, là thắng lợi của lòng quyết tâm phấn đấu thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (Quốc hội khoá VI) đã được tiến hành tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca; Quốc huy mang dòng chữ "Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam"; Sài Gòn được mang tên thành phố Hồ Chí; thành lập ủy ban dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bầu Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nước, Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội; Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, các đoàn thể quần chúng ở hai miền đều thống nhất lại với nhau mang một tên gọi chung. Đó là Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
Đại hội họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước và 29 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Báo cáo chính trị đánh giá, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX và để lại cho nhân dân ta nhiều bài học có giá trị to lớn.
Tình hình nước ta trong thời kỳ phát triển mới, nổi bật với ba đặc điểm lớn:
+ Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
+ Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của cuộc chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân gây ra.
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh "ai thắng ai” giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới vẫn diễn ra gay go, quyết liệt.
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trịvà trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội"
Về đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đại hội nêu rõ phải: Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học - kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
Trên cơ sở đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, Đại hội đã xác định các nội dung về:
+ Phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, phát triển khoa học, kỹ thuật.
+ Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới.
+ Tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể, làm tốt công tác quần chúng.
+ Nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng.
+ Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội quyết định bổ sung Điều lệ Đảng, đặt chức danh Tổng Bí thư thay chức danh Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 101 uỷ viên chính thức, Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên chính thức, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí, Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, con đường lịch sử mà Hồ Chí Minh đã chọn. Tuy nhiên, Đại hội chưa tổng kết được kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; chưa nhấn mạnh việc bức thiết phải làm sau chiến tranh là khắc phục hậu quả chiến tranh; đặc biệt là chưa xác định được chặng đường đầu tiên tiến lên chủ nghĩa xã hội, nóng vội "tả khuynh" trong việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là nông nghiệp lạc hậu lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề.
Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm và bảo vệ Tổ quốc (1976 - 1980)
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng, từ năm 1976 trở đi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, thực hiện cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia.
Trong quá trình chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã căn cứ vào sự phát triển của tình hình, từng bước bổ sung và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, vạch ra những nhiệm vụ cụ thể về kế hoạch kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng qua các kỳ hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương.
Cuối tháng 6 đầu tháng 7-1977, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về phát triển nông nghiệp. Hội nghị quyết định tập trung cao độ lực lượng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp với ba mục tiêu chính là bảo đảm lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội và có lương thực dự trữ; cung ứng nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản cho công nghiệp; tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu.
Trong những năm trước mắt, trên mặt trận kinh tế, phải nắm vững nhiệm vụ hàng đầu là phát triển vượt bậc sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... Tuy vậy, do thiếu tính toán khoa học, không đầu tư vốn thích đáng cho nông nghiệp mà chủ yếu tập trung cho công nghiệp nặng nên đề ra nhiều chỉ tiêu quá cao mà sau này không thực hiện được. Chủ trương tổ chức lại nền nông nghiệp trong cả nước và trên địa bàn huyện, tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và đẩy mạnh xây dựng nông trường, lâm trường quốc doanh ở miền Nam không phù hợp nên nông nghiệp cũng không phát triển được.
Những năm tiếp theo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã liên tiếp họp nhiều Hội nghị quan trọng: Hội nghị lần thứ ba tháng 1-1978, Hội nghị lần thứ tư tháng 7-1978, Hội nghị lần thứ năm tháng 12-1978, nhằm vạch ra phương hướng, nhiệm vụ và chủ trương, biện pháp thực hiện kế hoạch Nhà nước hằng năm. Ban Chấp hành Trung ương đã phê phán những thiếu sót, khuyết điểm trong chỉ đạo, tổ chức quản lý kinh tế và xã hội, phân tích những nguyên nhân khách quan, nhất là nguyên nhân chủ quan đã làm cho kinh tế - xã hội nước ta gặp nhiều khó khăn, trì trệ.
Trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta vốn đã thấp kém, thiên tai dồn dập, dự trữ nguyên vật liệu đang bị cạn kiệt, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút, chiến tranh hai đầu biên giới xảy ra, đế quốc Mỹ và các thế lực chống đối Việt Nam bao vây, cấm vận kinh tế, đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội bắt đầu xuất hiện. Trong bối cảnh đó, tháng 8-1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được triệu tập. Hội nghị đã đánh giá về thực trạng đất nước, tập trung bàn về phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm nghiêm trọng các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Hội nghị này khởi đầu chuyển biến về nhận thức đường lối kinh tế của Đảng, tháo gỡ những ràng buộc của cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất "bung ra".
Hội nghị đã thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách nêu ba nhiệm vụ phải thực hiện từ năm 1979 đến năm 1981 là đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời sống của nhân dân, tăng cường quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; kiên trì đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế - xã hội, nhất là các tệ nạn ăn cắp, hối lộ và ức hiếp quần chúng; nhiệm vụ quan trọng nhất là động viên cao độ và tổ chức toàn dân, toàn quân đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Cần thiết phải ban hành ngay các chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp như ổn định nghĩa vụ lương thực trong năm năm; bán cho Nhà nước theo giá thoả thuận và được lưu thông tự do, khuyến khích xuất khẩu nông sản, sửa đổi cách phân phối ăn chia trong hợp tác xã. Ở miền Nam, cải tạo nông nghiệp phải bảo đảm đúng các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, cưỡng ép; thừa nhận các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp. Tiến tới cải tiến một bước cơ bản các chính sách lưu thông phân phối nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng kết hợp lợi ích tập thể, cá nhân và lợi ích Nhà nước.
Hội nghị còn thông qua Nghị quyết 21-NQ/TW Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương nêu rõ: Phải dựa trên cơ sở sản xuất trong nước, chống tư tưởng ỷ lại vào viện trợ; phấn đấu ăn no, mặc ấm, đề cao tinh thần cần kiệm, giản dị, khuyến khích dùng hàng sản xuất trong nước, dành hàng tốt cho xuất khẩu.
Cốt lõi của hai nghị quyết trên là nhằm tháo gỡ từng bước những ràng buộc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở hướng cho sản xuất "bung ra”, kích thích lực lượng sản xuất phát triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của đời sống.
Thực hiện tinh thần làm cho sản xuất "bung ra" của Đảng, Chính phủ đã lần lượt công bố một loạt những quyết định mới về kinh tế như: Quyết định ngày 16-8-1979 Về việc bãi bỏ các trạm kiểm soát có tính chất ngăn sông cấm chợ, ngăn cản việc lưu thông hàng hóa. Quyết định ngày 10-9-1979 Về việc khuyến khích tận dụng ruộng đất trong nông nghiệp vào sản xuất cho phép những loại ruộng đất do tập thể sản xuất làm không kịp thời nên tạm giao cho đội sản xuất, các nhóm lao động, gia đình xã viên, cơ quan đơn vị mượn và không tính vào cân đối lương thực và phương án ăn chia của hợp tác xã. Người có công khai hoang vỡ hoá được sử dụng từ 3 đến 5 năm mới phải giao lại ruộng, trong thời gian đó được miễn thuế và các lệ phí khác. Quyết định ngày 3-10-1979 Về chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi trâu bò không hạn chế về số lượng, sản phẩm chăn nuôi được tự do sử dụng, trao đổi mua bán, xóa bỏ mọi hình thức cấm vận trâu bò. Quyết định ngày 13-10-1979 Về việc mở rộng kinh doanh theo nguyên tắc hợp đồng kinh tế hai chiều giữa Nhà nước và cơ sở sản xuất. Ngoài sản phẩm nộp nghĩa vụ và hợp đồng, khuyến khích trao đổi theo giá thoả thuận. Quyết định ngày 5-11-1979 Về chính sách phân phối thu nhập trong hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, thừa nhận phân phối bằng tiền và hiện vật, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển.
Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp thứ sáu (tháng 12-1979) đã đánh giá thành tựu to lớn mà nhân dân ta đã đạt được trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của đất nước, đặc biệt là bảo vệ và giữ vững chủ quyền độc lập tự do của Tổ quốc và chỉ rõ những thiếu sót, khuyết điểm. Một số chủ trương và kế hoạch chưa phù hợp với hiện thực, chưa có các giải pháp đồng bộ; bố trí kế hoạch còn phân tán, dàn đều, thiếu tập trung dứt điểm; không cân đối đồng bộ, chưa phát huy mạnh mẽ khả năng hợp tác quốc tế, lưu thông phân phối bất hợp lý, chế độ phân phối bình quân chưa có tác dụng khuyến khích thúc đẩy sản xuất. Cơ chế quản lý theo lối hành chính bao cấp gây nên tình trạng sức ỳ lớn, thiếu trách nhiệm trong quản lý sản xuất và tài sản Nhà nước, v.v..
Để giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt trong sản xuất và đời sống, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 23-NQ/TW (tháng 1-1980) Về những công tác lớn trong năm 1980 tập trung sức chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch năm 1980, thực hiện ba nhiệm vụ cấp bách đã nêu trong Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương.
Tuy nhiên, việc thực hiện còn nhiều khuyết điểm và yếu kém. Nền kinh tế nước ta vẫn nằm trong tình trạng khủng hoảng. Việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976 - 1980 chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh, thu nhập chưa bảo đảm tiêu dùng xã hội; nền kinh tế chưa có tích luỹ từ bên trong. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Cung ứng vật tư và giao thông - vận tải rất căng thẳng; chênh lệch thu chi, hàng và tiền, xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn. Thị trường vật giá không ổn định. Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1980) bàn Vềphương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1981. Hội nghị nhận định, các nghị quyết của Đảng bước đầu đã tạo ra những biến chuyển mới trong nền kinh tế quốc dân. Công tác khoán được xem là một nét mới và là biện pháp then chốt để đưa nông nghiệp phát triển. Vì vậy, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW Về cải tiến công tác khoán, mở rộng"khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động" tronghợp tác xã nông nghiệp.
Nội dung cơ bản của Chỉ thị 100 là cải tiến mạnh mẽ các hình thức khoán của đội sản xuất đối với xã viên, mở rộng “khoán sản phẩm”. Chỉ thị 100 đi vào cuộc sống đã tạo đà đi lên, ngăn chặn sự sa sút của nền nông nghiệp nước ta. Năng suất, sản lượng cây, con và diện tích cây công nghiệp tăng nhiều so với trước. Bình quân lương thực đầu người năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, ở Chỉ thị 100 cơ chế quản lý tập trung quan liêu của Nhà nước chưa được tháo gỡ, cơ chế quản lý hợp tác xã còn nhiều mặt bất hợp lý, mức khoán không ổn định, bộ máy quản lý gián tiếp của hợp tác xã cồng kềnh, kém hiệu quả; tổng mức huy động của Nhà nước tăng, phần dành phân phối cho người lao động không đáng kể.
Để "làm cho sản xuất bung ra" trong các xí nghiệp quốc doanh, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định 25-CP (ngày 21-1-1981) Về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết địnhchỉ rõ, ngoài những xí nghiệp có vị trí kinh tế quan trọng được Nhà nước bảo đảm những phương tiện vật chất để hoạt động ổn định, những xí nghiệp không được cung ứng đủ các điều kiện phải phát huy tính chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tìm việc làm và bảo đảm đời sống cho công nhân, viên chức bằng cách tìm vật tư thay thế, chuyển hướng sản xuất, nhận làm gia công cho các đơn vị kinh tế khác.
Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 26-CP (ngày 21-1-1981) Về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước nhằm thúc đẩy người lao động hăng hái sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập.
Các Quyết định số 25-CP và 26-CP đã giúp cho các cơ sở tháo gỡ được một phần khó khăn trong sản xuất, khuyến khích người lao động thi đua tăng năng suất, làm thêm giờ, tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, phát huy sáng kiến. Tình trạng trì trệ trong sản xuất công nghiệp giảm dần.
Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, các Quyết định 25-CP và 26-CP của Chính phủ đã tạo điều kiện cho công nghiệp, nông nghiệp có chuyển biến mới.
Trong khi đó, trên mặt trận lưu thông, phân phối có nhiều rối ren. Năm 1980, giá bán lẻ hàng hóa thị trường xã hội đã tăng 189,5% so với năm 1976, năm 1981 tăng 313,7%. Trước tình hình đó, ngày 23-6-1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26-NQ/TW Về cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Nghị quyết nhấn mạnh nguyên tắc: giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thông; tạo những tiền đề cần thiết để tiến tới xóa bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.
Khoa học - kỹ thuật có vai trò quan trọng trong sản xuất, đời sống, an ninh, quốc phòng. Vì vậy, song song với việc đề ra chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, ngày 20-11-1981, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 37-NQ/TW Về chính sách khoa học và kỹ thuật. Nghị quyết nhấn mạnh cần hướng mọi hoạt động vào nhiệm vụ thiết thực là phục vụ phát triển sản xuất, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước. Cải tiến công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ khoa học và kỹ thuật, đầu tư thích đáng cho các hoạt động khoa học - kỹ thuật. Coi hợp tác quốc tế là một bộ phận hợp thành rất quan trọng trong chính sách khoa học và kỹ thuật. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đưa hoạt động khoa học và kỹ thuật đến thắng lợi.
Sự nghiệp xây dựng đất nước của chúng ta trước mắt gặp nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện. Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nhất là hệ thống xã hội chủ nghĩa đang lâm vào khủng hoảng nặng nề. Các thế lực phản động thù địch đang ra sức phá hoại, chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Tình hình đó đã tác động mạnh đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Vì thế yêu cầu nâng cao trình độ chính trị và tư tưởng, tăng cường đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng là một nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Ngày 24-2-1981, Ban Bí thư ra Nghị quyết số 36-NQ/TW Về những nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng.
Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ công tác tư tưởng lúc bấy giờ nhằm làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận thức thật đúng về tình hình; nhận rõ đúng sai, tìm nguyên nhân, xác định phương hướng; giữ vững cái đúng, khắc phục sai lầm; nắm vững đường lối của Đảng; chống khuynh hướng "hữu" hoặc "tả" trong thực hiện đường lối, chủ trương về kinh tế của Đảng; kiên quyết chống lại âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch; tăng cường hợp tác quốc tế với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa, v.v.. Cùng với nhiệm vụ công tác tư tưởng, nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt tổ chức cũng được thực hiện. Bộ máy các cấp của Đảng được kiện toàn; số cấp uỷ viên được đào tạo ngày một tăng. Số đồng chí có trình độ đại học, trung học tăng từ 1% đến 5%. Trong hai năm 1977 - 1978, có 42.741 người được kết nạp vào Đảng, trong đó có 85,2% tuổi đời dưới 30. Việc đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng được tiến hành thường xuyên.
Các hoạt động về đối ngoại của Đảng và Nhà nước được triển khai mạnh mẽ. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đi thăm và cảm ơn các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và bầu bạn đã tận tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Ngày 20-9-1977, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc và thành viên của hơn 20 tổ chức quốc tế khác. Đến cuối năm 1980 đã có 106 nước lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Tháng 11-1978, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Liên Xô được ký kết.
Thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành độc lập và thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Vì vậy chúng cấu kết với nhau tìm mọi cách chống phá quyết liệt công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.
Tập đoàn Pôn Pốt đã thi hành chính sách cực kỳ phản động và diệt chủng ở Campuchia, tăng cường thù địch chống Việt Nam. Ngày 3-5-1975, chúng đã cho quân đổ bộ lên đảo Phú Quốc và sau đó chiếm đảo Thổ Chu của Việt Nam. Từ tháng 4-1977, họ tiến hành hàng ngàn vụ tấn công vũ trang trên biên giới Việt Nam. Chúng tuyên truyền coi Việt Nam là kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp, cắt đứt quan hệ ngoại giao, tăng cường lấn chiếm đất đai, giết hại nhân dân ta bằng những hình thức vô cùng dã man.
Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần đề nghị hai bên cùng đàm phán để giải quyết bằng con đường thương lượng, nhưng họ đều từ chối. Cuối tháng 12 chính quyền Pôn Pốt huy động 19 sư đoàn trong tổng số 23 sư đoàn mở cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn vào vùng biên giới Tây Nam Việt Nam. Ngày 23-12-1978, họ đã đưa 3 sư đoàn tấn công vào vùng Bến Sỏi, Bến Cầu với mục tiêu nhanh chóng chiếm tỉnh Tây Ninh, tiến sâu vào nội địa nước ta.
Trước hành động thù địch của tập đoàn Pôn Pốt ở Campuchia, sự kiên nhẫn của quân và dân ta là có giới hạn. Quân và dân ta đã lập tức đánh trả mạnh mẽ, nhanh chóng chuyển sang tiến công, mở các chiến dịch đánh đuổi bọn xâm lược Pôn Pốt ra khỏi bờ cõi nước ta, lập lại cuộc sống yên lành cho nhân dân. Ngày 26-12-1978, Bộ Chỉ huy quân đội cách mạng, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia quyết định phát động phong trào nổi dậy của quần chúng toàn quốc và kêu gọi quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ tiêu diệt bè lũ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi đó, quân tình nguyện Việt Nam cùng quân dân Campuchia đã phối hợp chặt chẽ tiến công quân diệt chủng Pôn Pốt. Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, chế độ diệt chủng được xóa bỏ. Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của bè lũ phản động Pôn Pốt-Iêngxari là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, quân và dân Việt Nam vừa làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với nhân dân Campuchia, vừa tiêu diệt tận gốc mầm mống gây ra cuộc chiến tranh xâm lược, bảo vệ một cách vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Ngày 18-2-1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Theo nội dung của Hiệp ước, quân đội Việt Nam tiếp tục có mặt ở Campuchia để cùng phía bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của cả hai nước.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, hai đảng và nhân dân hai nước đã đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác đã dành cho nhân dân ta sự ủng hộ và giúp đỡ toàn diện và quý báu.
Nhưng từ năm 1978, quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam xấu đi rõ rệt. Trên tuyến biên giới Trung - Việt liên tiếp diễn ra các vụ xung đột. Nghiêm trọng hơn, sáng 17-2-1979, Trung Quốc đã đưa hàng chục vạn quân mở cuộc tấn công dọc biên giới phía Bắc Việt Nam từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) dài hơn nghìn cây số, có nơi đã tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam tới 50 km.
Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, quân dân Việt Nam, trực tiếp là quân và dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã đứng lên chiến đấu rất ngoan cường vì độc lập, tự do. Nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới đã phản đối mạnh mẽ cuộc tiến công quân sự của quân Trung Quốc, ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của Việt Nam.. Ngày 5-3-1979, Trung Quốc đã phải rút quân và đến 18-3-1979 đã rút hết quân về nước. Ngày 18-4-1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán để khôi phục hòa bình, an ninh, giải quyết vấn đề về chủ quyền lãnh thổ biên giới.
Những năm lịch sử 1975 - 1981 là những năm sôi động và vô cùng phức tạp trên con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đạt được những thành tựu bước đầu trong công cuộc xây dựng lại đất nước theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Song, bên cạnh những thành tựu, đất nước ta đã gặp nhiều khó khăn chồng chất và gay gắt về kinh tế và đời sống. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện. Những khó khăn chồng chất và gay gắt, sự khủng hoảng về kinh tế - xã hội, trước hết là do những nguyên nhân khách quan tạo ra. Song xét về mặt lãnh đạo "trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội"
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982), thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1981 - 1985)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại Thủ đô Hà Nội (trong đó Đại hội nội bộ đã diễn ra từ ngày 15 đến ngày 24-3-1982). Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở trong cả nước và 47 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.
Đại hội V của Đảng diễn ra trong hoàn cảnh nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng, một phần do sau những năm liên tục chiến tranh, việc khắc phục hậu quả chiến tranh rất phức tạp và kéo dài. Đặc biệt, những sai lầm, khuyết điểm trong việc duy trì mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp quá lâu, cộng với hậu quả do hai cuộc chiến tranh biên giới làm khó khăn lại càng trở nên gay gắt. Sản xuất công nghiệp không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra. Lưu thông, phân phối trở nên rối ren, cán cân thương mại chênh lệch, nhập gấp 4-5 lần xuất. Giá cả tăng vọt. Đời sống của nhân dân và cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang trở nên rất khó khăn. Nhiều nhu cầu thiết yếu, tối thiểu như lương thực, hàng tiêu dùng thiếu gay gắt. Nạn đói diễn ra ở nhiều nơi. Vấn đề công ăn, việc làm, tệ nạn xã hội... trở nên nhức nhối. Trong khi đó, tình hình quốc tế có nhiều căng thẳng. Các lực lượng phản động quốc tế câu kết với nhau, thi hành chính sách bao vây, cô lập Việt Nam. Đế quốc Mỹ xiết chặt cấm vận và lôi kéo các nước cắt viện trợ kinh tế cho Việt Nam. Ngoài ra, chúng ta còn chịu sức ép từ biên giới phía Bắc và các lực lượng chống Việt Nam tiếp tục lôi kéo một số nước láng giềng giúp đỡ bọn tàn quân Pôn Pốt hoạt động chống phá cách mạng.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981-1985) và những năm 80, Báo cáo về xây dựng Đảng.
Đại hội đã kiểm điểm một cách toàn diện sự lãnh đạo của Đảng từ Đại hội lần thứ IV; đánh giá những thành tựu và khuyết điểm sai lầm, phân tích nguyên nhân của những thắng lợi và khó khăn của đất nước; những biến động của tình hình thế giới. Trên cơ sở đó, Đại hội đã nêu rõ trong giai đoạn mới của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ:
Một là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội;
Hai là sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ đó có quan hệ mật thiết với nhau.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội đã vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp thực thi trong từng chặng đường.
Chặng đường trước mắt bao gồm những năm 1980. Những mục tiêu kinh tế và xã hội tổng quát cho những năm đó là:
+ Ổn định dần dần, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
+ Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
+ Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.
+ Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trật tự.
Đại hội đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa và xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại, nhiệm vụ nâng cao sức chiến đấu của Đảng...
Nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng lúc này là: Tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thực sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
Đại hội đã thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 uỷ viên chính thức và 36 uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm có 13 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Ban Bí thư gồm 10 đồng chí. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại giữ chức Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ năm đã có những tìm tòi bước đi trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Song, Đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lý lưu thông, phân phối vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết định, chưa có những chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp.
Sau Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã mở nhiều hội nghị để tiếp tục đi sâu đánh giá tình hình, đề ra các chủ trương, biện pháp để chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước. Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chương trình công tác toàn khoá và quy chế làm việc của Trung ương để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội.
Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 1981 - 1985
Nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam được Đại hội lần thứ V của Đảng xác định là phải phấn đấu để ổn định tình hình, tiến lên cải thiện một bước về đời sống của nhân dân. Từ sau Đại hội tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn tiếp tục diễn ra theo chiều hướng ngày càng nghiêm trọng và có mặt rất gay gắt. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1982) đãxác định phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội và đặt mức phấn đấu cụ thể từ năm 1983 đến năm 1985: Tập trung giải quyết nhu cầu ăn và mặc; hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng một số công trình quan trọng; kiện toàn và nâng cao chất lượng của kinh tế quốc doanh; củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và thủ công nghiệp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng; phải thiết lập cho được trật tự trong lĩnh vực lưu thông phân phối, nhanh chóng ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, trước hết là đời sống của công nhân, cán bộ, các lực lượng vũ trang. Trước mắt cần nắm và tập trung nguồn hàng, quản lý chặt chẽ tài chính, tiền tệ và giá cả; mở rộng mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý thị trường... Hội nghị này đã thể hiện một bước tiến mới trong nhận thức về lãnh đạo, quản lý kinh tế của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những yếu kém và khuyết điểm về tư tưởng và tổ chức là một trở ngại trên con đường thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, tháng 6-1983, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra những nhiệm vụ công tác tư tưởng và tổ chức cấp bách cần tập trung giải quyết.
Vào cuối tháng 12-1983, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1984 và mức phấn đấu năm 1985.
Hội nghị tiếp tục khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chỉ ra những hạn chế trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy, vẫn chưa nắm chắc thực trạng tình hình kinh tế - xã hội, đề ra chỉ tiêu sản xuất được 18 triệu tấn lương thực là quá cao.
Tiếp đến tháng 12-1984, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về phương hướng kinh tế - xã hội năm 1985 và phương hướng xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện. Hội nghị đề ra nhiệm vụ chủ yếu là tập trung cố gắng cho mặt trận nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm, đẩy mạnh hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến chủ trương coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, Hội nghị chưa chỉ rõ những chính sách thiết thực để tập trung cho nông nghiệp. Đường lối xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện có những điểm chưa phù hợp với thực tế, và chủ quan.
Các chính sách, biện pháp của Đảng về phân phối lưu thông vẫn chưa được giải quyết về cơ bản, vẫn tiếp tục duy trì các chính sách giá - lương - tiền trên cơ sở cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Vì vậy, tháng 6-1985,Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về giá - lương - tiền. Hội nghị chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Tiến hành cuộc điều chỉnh lớn và toàn diện về giá - lương - tiền lần thứ hai. Phương châm điều chỉnh lần này là khẩn trương, kiên quyết, nhưng phải tính toán thận trọng các phương án vững chắc. Đây là một bước đổi mới tư duy trên lĩnh vực lưu thông phân phối với nét nổi bật của nó là thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa.
Ngày 14-9-1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền lần thứ hai bắt đầu cùng với việc ban hành một số giá mới và tiền lương mới, xóa bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho những người ăn lương. Chủ trương đổi tiền nhằm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, bảo đảm yêu cầu đủ tiền cho tăng lương, tăng giá. Cuộc cải cách giá, lương, tiền lần thứ hai, thực hiện chính sách bán lẻ theo một giá là cần thiết, phù hợp với quy luật của nền sản xuất hàng hóa. Tuy vậy, vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong khi chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt là một sai lầm. Hậu quả lớn nhất của cuộc cải cách giá, lương, tiền lần này đã dẫn đến tình trạng lạm phát "phi mã" trong 3 năm 1986 - 1988. Chính vì vậy, Nhà nước đã phải lùi lại một bước, thực hiện chính sách hai giá năm 1985.
Sau thời gian thực hiện các nghị quyết 6, 7, 8 của Trung ương, nền kinh tế nước ta đã đạt được một số tiến bộ. Sản lượng lương thực năm 1985 tăng 400.000 tấn, tốc độ sản xuất nông nghiệp tăng 7,4%. Quan hệ sản xuất mới ở nông thôn được củng cố và tăng cường một bước, công tác cải tạo ở các tỉnh Nam Bộ tiến triển thuận lợi, sản xuất nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân ổn định và có mặt được cải thiện; lương thực cung cấp cho Nhà nước và nông sản xuất khẩu ngày càng tăng, việc kết hợp kinh tế với quốc phòng có bước tiến khá. Tuy vậy, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt. Lương thực, năng lượng, ngoại tệ, vật tư, tài chính vẫn rất căng thẳng, cơ chế quản lý mới chưa hình thành. Kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước lỏng lẻo.
Tiếp tục thực hiện đổi mới về quản lý kinh tế, tài chính, ngày 22-6-1985, Ban Bí thư Trung ương Đảng raChỉ thị Về việc cải tiến quản lý kinh tế, hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Chỉ thị quyết định chuyển hẳn công tác quản lý hợp tác xã sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động đi đôi với việc xây dựng huyện, tăng cường cấp huyện.
Chỉ thị của Ban Bí thư đã tạo điều kiện để củng cố các hợp tác xã nông nghiệp, hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm, làm cho người nông dân phấn khởi, không ngừng đầu tư cho sản xuất.
Ngày 10-8-1985 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 28-NQ/TW Về việc phê chuẩn các phương án giá - lương - tiền. Tháng 9-1985, Hội đồng Nhà nước ban hành lệnh phát hành tiền ngân hàng mới, thu đổi tiền ngân hàng cũ nhằm bảo đảm quỹ tiền tệ phục vụ sản xuất, lưu thông đời sống, tổng kiểm kê tiền mặt của toàn xã hội. Tuy nhiên, việc thu đổi tiền đã mắc phải nhiều khuyết điểm: kế hoạch bị lộ sớm, nhiều nơi lộ cả thời gian và mức đổi. Sau đổi tiền, giá cả tăng lên 10 lần. Hệ thống giá mua của Nhà nước mới bắt đầu thực hiện nhưng đã diễn ra nhiều mặt phức tạp. Giá nhiều loại hàng thiết yếu, nhất là giá cước vận tải, cước bưu điện, giá một số thuốc chữa bệnh, giá muối, giấy tăng vọt.
Năm 1985, tuy nhiều lần bị thiên tai, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng hơn năm 1984, chăn nuôi, trồng cây công nghiệp, nghề rừng, nuôi trồng và khai thác thuỷ sản đều phát triển; giá trị sản lượng công nghiệp tăng 7,4%, phong trào hợp tác xã nông nghiệp ở miền Nam hoàn thành về cơ bản. Trong cả nước có nhiều xí nghiệp tạo ra thế làm ăn mới, có hiệu quả cao hơn; công tác giáo dục, y tế, xã hội có nhiều cố gắng và tiến bộ. Tuy vậy, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp chưa ổn định; năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, kim ngạch xuất khẩu tăng chậm; do mắc nhiều khuyết điểm quan trọng về giá - lương - tiền, nên tình hình có nhiều phức tạp, ảnh hưởng xấu đến kinh tế - xã hội.
Trước tình hình trên, từ tháng 12-1985 đến tháng 12-1986 Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã triển khai nhiều hội nghị để tìm cách tháo gỡ khó khăn, ngăn chặn cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuẩn bị triệu tập Đại hội lần thứ VI của Đảng. Hội nghị lần thứchín Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 12-1985 bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1986. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 6-1986 đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Ngày 10-7-1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị bất thường bầu đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị giữ chức Tổng Bí thư của Đảng.
Từ năm 1982 đến năm 1986, quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ V và các nghị quyết sau đó của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, toàn Đảng, toàn dân ta đã phấn đấu gian khổ, vượt qua nhiều thử thách trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu đạt được trong năm năm đó đã tạo cho sự nghiệp cách mạng của nước ta những điều kiện mới để tiếp tục tiến lên. Đó là:
- Về kinh tế, đã chặn được đà giảm sút những năm trước, trong năm năm 1981-1986, bình quân hàng năm sản xuất nông nghiệp tăng 4,9%, lương thực mười bảy triệu tấn/năm, công nghiệp tăng 9,5%, điện tăng thêm 456.000 kW, than 2,5 triệu tấn, hoàn thành xây dựng mấy trăm công trình lớn... Thu nhập quốc dân bình quân hàng năm tăng 6,4%. Công trình thuỷ điện Hòa bình, Trị An đang được xây dựng, dầu mỏ bắt đầu được khai thác. Cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến thêm một bước, đặc biệt chủ trương khoán sản phẩm theo Chỉ thị 100 đã mở lối ra cho quan hệ sản xuất ở nông thôn cũng như chủ trương nhiều nguồn cân đối và 3 phần kế hoạch trong Quyết định số 25-CP đang mở đường cho sản xuất công nghiệp.
- Về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao... đã có những tiến bộ góp phần xây dựng nền văn hóa mới, con người mới.
- Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đã giành được những thắng lợi to lớn. Nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia được thực hiện tốt, góp phần tăng cường quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thêm chặt chẽ.
Nhưng đất nước thời kỳ này đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị suy yếu; đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức gặp khó khăn; tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm; quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nhìn tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước. Xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta, không coi trọng khôi phục kinh tế là nhiệm vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng năm năm; chưa biết kết hợp kế hoạch hóa với quan hệ hàng hóa - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.
Thực trạng của đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.