Bình giảng bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.
Đề bài: Em hãy bình giảng bài thơ Tiếng thu của nhà thơ Lưu Trọng Lư để thấy được cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Trong thơ văn xưa và nay, hình ảnh mùa thu thường xuất hiện trong mạch nguồn cảm xúc của nhiều các nhà văn, nhà thơ. Mùa thu gợi ra cho con người những cảm xúc buồn man mác, gợi ra sự chia ...
Đề bài: Em hãy bình giảng bài thơ Tiếng thu của nhà thơ Lưu Trọng Lư để thấy được cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Trong thơ văn xưa và nay, hình ảnh mùa thu thường xuất hiện trong mạch nguồn cảm xúc của nhiều các nhà văn, nhà thơ. Mùa thu gợi ra cho con người những cảm xúc buồn man mác, gợi ra sự chia phôi, mất mát. Vốn là một đề tài đã quá quen thuộc, lại được chắp bút thành công bởi rất nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Nhưng, không để cho cái quen thuộc, thành công ấy cản ...
Đề bài: Em hãy bình giảng bài thơ Tiếng thu của nhà thơ Lưu Trọng Lư để thấy được cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
Trong thơ văn xưa và nay, hình ảnh mùa thu thường xuất hiện trong mạch nguồn cảm xúc của nhiều các nhà văn, nhà thơ. Mùa thu gợi ra cho con người những cảm xúc buồn man mác, gợi ra sự chia phôi, mất mát. Vốn là một đề tài đã quá quen thuộc, lại được chắp bút thành công bởi rất nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Nhưng, không để cho cái quen thuộc, thành công ấy cản bước, cũng bắt nguồn cảm xúc từ mùa thu, nhưng nhà thơ Lưu Trọng Lư đã không đi vào những khía cạnh quen thuộc mà thi nhân xưa đã khai thác, ông lựa chọn cho mình một phương thức biểu đạt mới, một cách cảm nhận mới lạ đầy tinh tế. Và sự thành công, mới lạ này được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Tiếng thu”.
Nhà thơ Lưu Trọng Lư vốn là một trong những cây bút tiên phong cho phong trào thơ Mới ở Việt Nam. Thơ của ông không cầu kì trau chuốt, mà thơ của Lưu Trọng Lư hay bởi chính cái chất liệu bình dị mà nhà thơ xây dựng lên nó. Hiện lên trong thơ Lưu Trọng Lư thường là những hình ảnh gần gũi, thân quen do đó nó bình dị mà đầy sức gợi, đơn sơ mà đầy tính tạo hình. Bài thơ “Tiếng thu” vừa là một bức tranh mùa thu đầy thi vị, vừa là bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình tha thiết, xúc động lòng người. Ngay ở phần mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình xuất hiện cùng với những lời tâm sự chân thành, đầy da diết:
“Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?”
Câu thơ như vừa như lời tự hỏi, vừa như lời trách móc đầy tình cảm của nhân vật trữ tình đối với người mình yêu. Trong tình yêu, những đôi lứa yêu nhau thường mong muốn có những phút giây riêng tư, hạnh phúc bên nhau để cùng cảm nhận những dư vị tươi đẹp, chia sẻ những phút giây hạnh phúc khi đón nhận những đổi thay của cuộc sống. Ở đây, mùa thu đến nhưng đôi lứa lại không ở bên nhau, mỗi người ở một nơi. Và chính khoảng cách địa lí đó đã vô tình tạo ra khoảng cách trong tâm hồn, vì xa cách mà chàng trai băn khoăn trăn trở trách móc “Em không nghe mùa thu”. Có lẽ trong cảm nhận của chàng trai giờ đây tràn ngập cảm xúc, tư vị của tình yêu dành cho cô gái. Nhưng vẫn băn khoăn rồi đi đến khẳng định, cô gái không “nghe” được, cũng tức là không cách nào cảm nhận được tấm chân tình của mình.
Mùa thu thường gợi cho người ta cảm nhận về nỗi buồn, những nỗi buồn man mác bởi chính sự nhạt nhòa, phôi pha của cảnh vật. Và trong không gian ấy thì đối với những đôi lứa yêu nhau nhưng không thể ở bên nhau lại càng thêm khắc khoải. “Dưới trăng mờ thổn thức”, vì em không nghe thấy mùa thu nên em cũng không thể cảm nhận được ánh trăng mờ, điều đặc biệt là ánh trăng vô tri vô giác ấy được nhà thơ Lưu Trọng Lư khoác lên nó màu sắc của các giác quan, nên dưới ánh trăng mùa thu, hay nói đúng hơn là dưới sự cảm nhận của nhân vật trữ tình thì ánh trăng cũng đượm buồn “thổn thức”, đó là màu sắc ánh trăng hay cũng chính là màu sắc tâm trạng bi ai của nhân vật trữ tình ấy.
“Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ”
Tình cảm nồng nàn, đắm say, rạo rực vốn là những cảm xúc thuộc về tình yêu, và để có được những cảm xúc đấy thì có điều kiện tất yếu là những đôi lứa phải được ở gần nhau, ở cạnh nhau. Và trong bài thơ này, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã nói đến cái rạo rực, tha thiết trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Nhưng cái đặc biệt là cái rạo rực ấy hoàn toàn đơn phương. Bởi cô gái không cảm nhận được, không nghe thấy “Em không nghe rạo rực”. Nhà thơ đã điệp lại cấu trúc “Em không biết” như diễn tả cái dạt dào trong cảm xúc. Và sự rạo rực này được nhà thơ gợi tả sinh động thông qua gợi nhắc đến cặp hình tượng người chinh phu và chinh phụ.
Thông qua cặp hình tượng này, người đọc dường như liên tưởng đến hoàn cảnh cách biệt của đôi phu phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Người chinh phu ở nơi chiến trường xa xôi, người chinh phụ thì mong ngóng, trông chờ tin tức của người chồng. Cái rạo rực ở đây chính là nỗi nhớ đến cháy bỏng cùng với nỗi thấp thỏm, khắc khoải không yên. Vì nơi người chồng ra đi là nơi chiến trận, hiểm nguy luôn rình rập, tính mạng có thể bỏ ngỏ bất cứ lúc nào. Vì vậy tình yêu thương cùng tâm trạng lo lắng, mong chờ, tạo ra cảm giác rạo rực khôn nguôn. Ở đây nhà thơ Lưu Trọng Lư mượn cặp hình tượng này để nhấn mạnh nỗi nhớ của mình dành cho cô gái. Đó là tình cảm rạo rực, khắc khoải khôn nguôi.
“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc”
Vẫn là điệp khúc “em không nghe”, được lặp lại đến lần thứ ba, gợi liên tưởng đến dòng tâm sự dạt dào như thác tràn ra trên mặt giấy. Ngay từ những câu thơ đầu, nhân vật trữ tình đã mặc định là cô gái không nghe thấy mọi sự đổi thay của trời đất, hay đúng hơn là những tâm sự triền miên, khắc khoải trong tâm trạng của mình. Và không nghe không phải cô gái vô tình, không muốn nghe mà do hoàn cảnh cách li, nên cô gái không thể lắng nghe mà cũng không thể cảm nhận đến tận cùng cái dạt dào ấy. “Em không nghe rừng thu”, không gian được gợi mở ở đây chính là không gian rừng thu, nơi chứa đựng, sinh sôi của vạn vật. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của thế giới tâm hồn của chàng trai.
Và trong rừng thu ấy, tiếng lá rơi rụng mang đến những âm thanh xào xạc. Nó gợi ra những nét tương đồng trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Và trong thế giới tâm hồn đầy phong phú, nhạy cảm ấy, tiếng lòng của chàng trai càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết. Và những rung động, những âm thanh đầy hỗn loạn trong thế giới ấy là do cô gái, đối tượng tình ái của chàng trai ấy. Bởi không chỉ có yêu thương, không chỉ có cái rạo rực, da diết mà còn có chút giận hờn, trách móc…những tư vị đặc biệt chỉ có thể có khi tình yêu đích thực nảy nở, bám rễ trong tâm hồn.
Từ đầu đến cuối đều là những độc thoại của nhân vật trữ tình với chính mình, những câu nói hàm chứa sự giận hờn, trách móc ấy cũng chỉ đặt ra rồi tồn tại khắc khoải, trăn trở trong chính tâm hồn đầy nhạy cảm ấy. Cô gái không hề xuất hiện, cũng không thể xuất hiện, do đó đọc những dòng tâm sự của chàng trai dành cho cô gái, độc giả không khỏi bồi hồi, xúc động. Tình yêu đó thật mãnh liệt, thật đẹp đẽ, trong sáng biết bao. Đẹp bởi nó đủ mạnh để chàng trai kiên định, đấu tranh để bảo vệ tình yêu ấy. Đẹp bởi dù có những tổn thương không mong muốn thì chàng trai vẫn theo đuổi đến cùng tình yêu của đời mình. Và lời tuyên ngôn ấy cũng thể hiện qua hai câu cuối của bài thơ:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Ở hai câu thơ cuối này, người đọc bỗng thấy hoài nghi bởi sự xuất hiện không mấy liên quan của hình ảnh con nai vàng, bởi từ đầu chỉ có những sự vật gợi ra cái trống vắng của cảnh vật thì ở đây hình ảnh con nai xuất hiện bỗng làm cho bức tranh thơ trở nên sinh động, màu sắc hơn. Cũng làm cho bức tranh tâm hồn những điểm sáng của hi vọng, bởi sự trong sáng, ngây thơ, ngơ ngác của con nai cũng chính là cái tươi mới, trong sáng của tình yêu chân chính. Vì vậy mà dù có bao trở ngại, có những cách ngăn thì tình yêu vẫn đủ lớn để vượt lên trên tất cả “Đạp trên lá vàng khô”.
Như vậy, bài thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, vừa là bức tranh mùa thu dù đẹp nhưng mang những nét đượm buồn; cũng vừa là bức tranh tâm trạng đầy sống động của nhân vật trữ tình. Và sự vận động của tâm trạng ấy cũng khiến người đọc không khỏi xúc động, bồi hồi. Từ những cách ngăn trong tình cảm thì dòng cảm xúc ấy vẫn dần lớn lên. Và khi đã đủ “chín” thì tình yêu ấy vươn lên mọi hoàn cảnh, trở ngại để trở thành bất tử.