Bình giảng bài thơ Thương vợ của Tú Xương – Văn mẫu lớp 11
Đánh giá bài viết Bình giảng bài thơ Thương vợ của Tú Xương – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Đồng Tháp Thơ xưa viết vế người vợ đã ít; mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. ...
Đánh giá bài viết Bình giảng bài thơ Thương vợ của Tú Xương – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Đồng Tháp Thơ xưa viết vế người vợ đã ít; mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Bà ...
Bình giảng bài thơ Thương vợ của Tú Xương – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Đồng Tháp
Thơ xưa viết vế người vợ đã ít; mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca.
Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.
Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.
Câu thơ mở đâu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vá, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:
Quanh năm buôn bán ở mom sông..
Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có diều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng, tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương: Lặn lội thân cò khi quãng vắng là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu cáu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò – càng làm tăng nỗi vất vá gian truân của bà Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc thấm thía hơn.
Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng đặn con rằng:
Con ơi nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.
Buổi đò đông không chi có những lời phàn nàn, mè nheo, cáu gắt, những sự chen lấn, xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn chải trong hoàn cảnh chèn chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương, đó là tấm lòng xót thương da diết.
Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức:
Cơm hai bữa: cá kho rau muống
Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô
(Thầy đồ dạy học)
Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cám phục sự hy sinh rất mực của vợ:
Năm nắng mười mưa dám quản công
Ở câu thơ này, nắng mưa chỉ sự vất vả, năm mười là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khô, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.
Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm. ờ bài thơ thương vợ cũng vậy. ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ.
Về câu thơ Nuôi đủ năm con với một chồng, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi. sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên
một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ.
Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:
Cô chồng hờ hững cũng như không
Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn đối với người phụ nữ: xuất giá tòng phu (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì phu xướng, phụ tùy (chồng nói, vợ theo), ‘thế mà có một nhà nho đám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, đám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn đám tự nhận khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao?
Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ về đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án thôi đời mà còn tự trách.
Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.
Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ánh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.
Bình giảng bài thơ Thương vợ của Tú Xương – Bài làm 2
Tú Xương nổi bật trong nền văn học Việt Nam với ngòi bút trào phúng đầy sắc nhọn chĩa về xã hội thối nát thực dân phong kiến đương thời. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ông cũng có rất nhiều bài thơ cảm động, mà tiêu biểu phải kể đến “Thương vợ”.
Ngay từ cái nhan đề đã toát lên tình cảm thương yêu chứa chan của nhà thơ dành cho bà Tú. Mở đầu bài thơ, bà Tú hiện lên với hình ảnh của một phụ nữ tất bật với công việc, gia đình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Mom sông” là nơi có mỏm đất nhô ra, rất chênh vênh. Nó cho thấy cái nỗi vất vả, cơ cực của bà Tú khi phải lặn lội kiếm sống từ ngày này qua ngày khác để chăm chồng, chăm con. Dường như mọi gánh nặng trong gia đình đều đổ dồn lên một vai bà.
“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
“Eo sèo” chỉ sự rầy rà bằng lời gọi liên tiếp dai đẳng. Để có thể trang trải được mọi chi phí cho gia đình, bà Tú đã phải chật vật, giành giật từng miếng cơm, manh áo trong thời buổi cơ cực.
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
Tú Xương đã rất thành công trong việc sử dụng hai câu thành ngữ quen thuộc của nhân dân ta: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. “Duyên” ở đây ý chỉ đến cái duyên phận, duyên “nợ” mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” vốn là những hình ảnh tượng trưng cho sự vất vả. Bà Tú đã phải âm thầm chịu đựng mọi khó khăn để đảm bảo cuộc sống no đủ cho cả gia đình. Bà mang dáng dấp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương, chịu khó, âm thầm hi sinh tất cả vì gia đình. Có lẽ bởi vậy mà ông Tú lại càng thấy trách chính bản thân mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Ông tự thấy bản thân là một kẻ “ăn bám vợ”, vô tích sự trong gia đình, thậm chí còn “hờ hững” với cả vợ, cả con. Câu thơ như lời tâm sự của nhà thơ, khiến ta không thể giận ông, mà chỉ có thể căm ghét xã hội đã đẩy con người phải sống một cuộc đời lam lũ, khó khăn.
Lời thơ giản dị, gần gũi, bài thơ “Thương vợ” đến với độc giả một cách nhẹ nhàng, đầy sâu lắng. Hình ảnh bà Tú đẹp như bao người mẹ, người chị trong gia đình Việt Nam, khiến ta cảm thấy quen thuộc, mến yêu hơn.
Bình giảng bài thơ Thương vợ của Tú Xương – Bài làm 3
Xưa nay, những bài thơ hay, những vần thơ đẹp vẫn được các nhà thơ dành tặng cho mẹ hay một nàng thơ nào đó. Nhưng thơ về vợ – là người yêu đồng thời cũng là người “nâng khăn sử túi”, âm thầm lặng lẽ hy sinh thì lại ít được sáng tác. Bởi vậy mà “Thương vợ” khi ra đời lại được nhiều độc giả đón nhận không chỉ bởi đó là một trong những bà ithơ hiếm hoi viết về đề tài này, mà nó còn cho thấy một cái nhìn khác về Tú Xương – bậc thầy của thơ trào phúng.
“Thương vợ” được coi là một trong nhwuxng thơ cảm động nhất của Tú Xương khi sáng tác thơ trữ tình nói chung và thơ về người phụ nữ, ở đây là người vợ của ông, nói riêng. Ngay từ cái nhan đề đã toát lên tình cảm thương yêu chứa chan của nhà thơ dành cho bà Tú. Mở đầu bài thơ, bà Tú hiện lên với hình ảnh của một phụ nữ tất bật với công việc, gia đình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Quanh năm” – một hoạt động đã trở thành nếp sống sinh hoạt, tạo thành một guồng quay cuộc sống. “Mom sông” là nơi có mỏm đất nhô ra, rất chênh vênh trên sông vốn mênh mông, bốn bề là nước. Nó cho thấy cái nỗi vất vả, cơ cực của bà Tú khi phải lặn lội kiếm sống từ ngày này qua ngày khác. Bà không chỉ phải lo cho một đàn con mà còn phải tính thêm cả người chồng của mình – ông Tú. Dường như mọi gánh nặng trong gia đình đều đổ dồn lên một vai bà.
“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
“Eo sèo” chỉ sự rầy rà bằng lời gọi liên tiếp dai đẳng. Bf Tú vất vả như tấm thân cò gầy guộc trong bao câu ca dao, tục ngữ xưa của người Việt Nam:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tối có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con!
Để có thể trang trải được mọi chi phí cho gia đình, bà Tú đã phải chật vật, giành giật từng miếng cơm, manh áo trong thời buổi cơ cực.
“Một duyên hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”
Tú Xương đã rất thành công trong việc sử dụng hai câu thành ngữ quen thuộc của nhân dân ta: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. “Duyên” ở đây ý chỉ đến cái duyên phận, duyên “nợ” mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” vốn là những hình ảnh tượng trưng cho sự vất vả. Bà Tú đã phải âm thầm chịu đựng mọi khó khăn để đảm bảo cuộc sống no đủ cho cả gia đình. Bà mang dáng dấp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam: chịu thương, chịu khó, âm thầm hi sinh tất cả vì gia đình. Có lẽ bởi vậy mà ông Tú lại càng thấy trách chính bản thân mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Đóng vai trò là một người chồng, một ông bố, là người tụ cột cuat cả gia đình nhưng chính bản thân ông Tú nhận thấy sự “dư thừa” của mình. Ông tự thấy bản thân là một kẻ “ăn bám vợ”, vô tích sự trong gia đình, thậm chí còn “hờ hững” với cả vợ, cả con. Câu thơ như lời tâm sự của nhà thơ, khiến ta không thể giận ông, mà chỉ có thể căm ghét xã hội đã đẩy con người phải sống một cuộc đời lam lũ, khó khăn.
Lời thơ giản dị, gần gũi, bài thơ “Thương vợ” đến với độc giả một cách nhẹ nhàng, đầy sâu lắng. Hình ảnh bà Tú đẹp như bao người mẹ, người chị trong gia đình Việt Nam, khiến ta cảm thấy quen thuộc, mến yêu hơn.