Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiểu – Văn mẫu lớp 11
Đánh giá bài viết Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn cấp tỉnh trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Lào Cai Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thời trung đại, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân ...
Đánh giá bài viết Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn cấp tỉnh trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Lào Cai Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thời trung đại, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ này vào khoảng sau năm 1850, khi ông đã bị mù, ...
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn cấp tỉnh trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Lào Cai
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thời trung đại, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ này vào khoảng sau năm 1850, khi ông đã bị mù, về mở trường dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định. Nội dung dựa trên cơ sở các mô típ của văn học dân gian và truyện trung đại kết hợp với một số tình tiết có thật trong cuộc đời tác giả.
Truyện kể về Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn, trên đường đi thi đã đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga, một tiểu thư con quan. Nguyệt Nga tự nguyện xin gắn bó với chàng để đáp đển ân nghĩa. Trước khi thi, được tin mẹ đã qua đời, Lục Vân Tiên phải về chịu tang. Chàng thương khóc mẹ đến mù hai mắt. Trịnh Hâm, một kẻ xấu bụng vì ghen tài nên đã lừa đẩy Lục Vân Tiên xuống sông. Chàng được vợ chồng ông Ngư cứu sống, về đến quê nhà, chàng bị cha con Võ Thể Loan (vợ chưa cưới) trở mặt bội ước, đem bỏ chàng trong hang núi nhưng chàng được Thần, Phật giúp đỡ. Cuối cùng, mắt chàng sáng ra, thi đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi đánh giặc ô Qua.
Nguyệt Nga một lòng chung thủy với Vân Tiên. Bị Thái sư bắt đi cống cho giặc, nàng đã nhảy xuống sông tự tử, nhưng được cứu sống. Sau đó, nàng bị cha con Bùi Kiệm ép duyên, phải bỏ trốn. Cuối cùng, Vân Tiên thắng trận trở về, tình cờ gặp lại Nguyệt Nga và cùng nàng kết duyên chồng vợ.
Đoạn trích Lẽ ghét thương (từ câu 473 đến 504) kể về cuộc nói chuyện giữa nhân vật ông Quán và mấy nho sĩ trẻ tuổi. Lục Vân Tiên cùng bạn là vương Tử Trực đi thi, vào quán trọ gặp Trịnh Hâm và Bùi Kiệm cũng là sĩ tử. Trịnh Hâm đề nghị bốn người làm thơ để so tài cao thấp. Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thua tài lại còn nghi Lục Vân Tiên và vương Tử Trực gian lận. ông Quán nhân đó mới bàn về lẽ ghét thương ở đời.
Đoạn trích là lời cảm khái than đời của ông Quán trước bọn tiểu nhân Trịnh Hâm, Bùi Kiệm huênh hoang, khoác lác, bất tài mà bụng dạ lại xấu xa. Đó chính là việc tầm phào mà ông Quán ghét. ông Quán là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho mai danh ẩn tích, cũng như ông Ngư, ông Tiều, lấy nghề nghiệp mưu sinh làm tên. Có thể coi đây là nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của tác gỉả.
Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"
Câu nói của ông Quán cho thấy mối quan hệ khăng khít giữa hai loại tình cảm ghét – thương trong trái tim Đồ Chiểu. Hay ghét không phải vì những nỗi niềm riêng tư cá nhân trước cuộc đời. Hay ghét không phải vì không tha thiết lòng thương. Lí giải cho căn nguyên của tất cả những căm ghét sôi trào hóa ra lại xuất phát từ tấm lòng yêu thương trĩu nặng đối với cuộc đời: Vì chưng hay ghét cũng là hay thương. Câu thơ tuyên ngôn về lẽ ghét thương của ông Quán như một yêu cầu về đạo đức và lí tưởng của con người. Thương và ghét là hai mặt đối lập của một tình cảm thống nhất. Đã thương cái tốt đẹp tất phải ghét cái xấu xa. Lẽ ghét thương mà ông Quán nhắc đến gắn với lòng thương dân sâu sắc. Hóa ra ghét chỉ là một biểu hiện khác của tình yêu thương mà thôi.
Bởi thương đến xót xa trước cảnh nhân dân phải chịu lầm than, khổ cực, thương những con người tài đức mà bị vùi dập, phải mai một tài năng và chí nguyện bình sinh nên ông Quán càng căm ghét những kẻ hại dân, hại đời, nhẫn tâm đẩy dân chúng vào cảnh ngộ éo le, oan nghiệt. Giữa cuộc đời đầy rẫy bất công, ngang trái, trái tim yêu thương của nhà thơ không thể không cất lên tiếng nói bất bình, căm hận những gì lỗi đạo trời, trái đạo người. Vì chưng hay ghét cũng là hay thương – đó là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của Nguyễn Đình Chiểu.
Tiếp sau câu trả lời khái quát này, ông Quán đã chứng minh cho điều mình nói. Cái gốc của lẽ ghét thương xuất phát từ tỉnh yêu thương. Không có cái gốc của thương, mọi cái ghét dường như có nguy cơ trở thành thái độ hằn học với cuộc đời. Do đó nó sẽ không có ý nghĩa nhân văn cao cả và không có động lực đấu tranh.
Phần nói về lẽ ghét gồm mười câu:
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Câu thơ thứ nhất đã hé mở cho chúng ta thấy nguyên nhân quyết định thái độ yêu ghét của ông Quán và cũng là của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Thấp thoáng sau từng chữ, từng câu là một trái tim tha thiết yêu thương. Tình thương ấy thể hiện qua hai chữ hay thương giản dị, mộc mạc mà xúc động lòng người.
Tám câu thơ tiếp theo chia làm bốn cặp, cứ câu trên nêu lên đối tượng bị ghét thì câu dưới tả cảnh khổ của dân :
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời u, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quý phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Ông Quán đã Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm các triều đại và những nhân vật đại diện cho các triều đại đó như vua Kiệt thời nhà Hạ, vua Trụ đời nhà Thương bạo ngược, vô đạo, hoang dâm nhất trong lịch sử vua chúa Trung Quốc. Sử sách còn ghi lại chuyện vua Kiệt cho: Xây núi thịt, rừng thịt khô, đào ao đựng rượu, đi thuyền trong ao, đào hầm làm Trường Dạ cung (cung đêm dài) để nam nữ tạp giao. Vua Trụ cuối nhà Thương lấy thịt người nuôi thú dữ, moi tim trung thần là 77 Can để xem bảy khiếu…
Đời u, Lệ đa đoan tức là u vương và Lệ vương, những tên vua khét tiếng tàn bạo, say mê tửu sắc. Bao Tự, người đàn bà đẹp mà u vương say đắm thường buồn rầu, chẳng bao giờ cười. Để mua tiếng cười của Bao Tự, u Vương đã sai người lấy hàng trăm tấm lụa quý trong kho để xé, tạo ra âm thanh “vui tai” cho Bao Tự nghe. Liều lĩnh hơn, nhà vua còn cho đốt đài phong hoả trên núi Lư Sơn để các nước chư hầu tưởng có biến, vội vàng kẻo quân đến cứu. Đang dự yến tiệc trên lầu cao, nhìn các nước chư hầu hốt hoảng kéo tới rồi chưng hửng ra về, Bao Tự đã vỗ tay cười.
Đời Ngũ bá phân vân mà ông Quán nhắc đến là đời nhà Chu năm vua chư hầu kế tiếp nổi lên làm bá chủ. Họ kéo bè, kết cánh, đánh nhau liên miên gây nên cảnh loạn lạc, điêu đứng cho dân chúng. Đời thúc quỷ phân bảng, vua và các lãnh chúa cuối đời Đường sớm đầu tối đánh, hỗn chiến kéo dài khiến triều đình chia lìa, suy thoái.
Tất cả các triều đại trên đều giống nhau ở một điểm là vua chúa say đắm tửu sắc, hoang dâm vô độ, quan lại chia phe phái tranh giành, quyển lợi, không chăm lo đến cuộc sống của nhân dân mà còn làm hại dân, đẩy dân vào cảnh lầm than khổ cực. Nghệ thuật sử dụng điệp ngữ trong đoạn thơ có tác dụng nhấn mạnh những điểu đáng ghét và thể hiện thái độ căm phẫn cao độ của nhân vật ông Quán. Qua lời ông Quán, người đọc có thể thấy Nguyễn Đình Chiểu đã đứng hẳn về phía nhân dân bị áp bức để lên án bọn vua chúa bạo ngược, bất nhân và lũ quan lại sâu dân mọt nước.
Trong phần nói về lẽ thương, ông Quán đã dẫn những chuyện về các bậc hiền tài phải chịu số phận lận đận, ước nguyện phò vua giúp đời không thành. Hoài bão và cảnh ngộ của họ dường như có những điểm giống với tác giả của truyện Lục Vân Tiên. Bởi vậy tiếng thơ là lời đồng cảm sâu sắc xuất phát từ đáy lòng, đâu phải chi là chuyện xem trong kinh sử đã từng. Nguyễn Đình Chiểu khi viết truyện Lục Vân Tiên đã trải qua bao bất hạnh của số phận, lại đứng trước một thời buổi nhiễu nhương, loạn lạc.
Nói đến lẽ thương thì những nhân vật mà ông Quán thương là đức thánh nhân Khổng Tử, ông tổ của Nho giáo đã lận đận cả đời trỏng sự nghiệp hành đạo của mình. Khổng Tử muốn truyền bá tư tưởng, thực hiện hoài bão cứu đời nhưng tới nước nào cũng không được tin dùng, có những lần còn suýt bị hãm hại. Thầy Nhan tử dở dang tức là Nhan Uyen, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, rất hiếu học, đức độ, song yểu mệnh: Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh. Gia Cát (Khổng Minh) thời Tam Quốc dốc tài làm quân sư cho Lưu Bị nhằm khôi phục cơ đồ nhà Hán nhưng lại không gặp thời, gặp vận, trước khi mất, sự nghiệp vẫn chưa thành. Đổng Tử tức Đổng Trọng Thư, bậc đại Nho thời nhà Hán, học rộng, tài cao, ra làm quan mà không được trọng dụng, không có điều kiện để thi thố tài năng. Nguyên Lượng tức Đào Tiềm, người có tính cách cao thượng, không màng danh lợi và rất giỏi thơ văn. Đào Tiềm đã nhận một chức quan nhỏ nhưng vì không chịu khom lưng uốn gối trước quan trên nên đã lui về ẩn dật, đào giếng lấy nước uống, cày ruộng lấy cơm ăn (tạc tỉnh canh điền), để giữ trọn khí tiết của mình. Hàn Dũ là nhà văn nổi tiếng đời Đường, khi làm quan trong triều vì dâng biểu khuyên vua không nên quá tin đập Phật nên đã bị giáng chức và đày đi xa. Thầy Liêm, Lạc là Chu Đôn Di ở Liêm Khê và Trình Hạo, Trình Di người Lạc Dương, đều là những triết gia nổi tiếng đời Tống, ra làm quan nhưng bất đổng quan điểm với vua nên lui vể dạy học.
Như vậy, lẽ thương của ông Quán bắt nguồn từ tình thương dân, thương đời. Cảnh ngộ của Nguyễn Đình Chiểu khi viết tác phẩm Lục Vân Tiên ít nhiều giống những nhân vật lịch sử mà ông Quán đã dẫn trong đoạn trích. Là một nho sĩ, Nguyễn Đình Chiểu cũng từng mơ ước lập thân để trả nợ nước non, nhưng mới bước chân vào đời ông đã gặp bao nỗi bất hạnh, Cho nôn, trong niềm thương những bậc hiền tài kia cũng có một phần là thương mình.
Địểm lại tất cả những đối tượng ghét và thương của ông Quán, chúng ta có thể thấy điều mà tác giả quan tâm chính là cuộc sống lầm than của đông đảo dân chúng dưới ách thống trị của bọn vua chúa bạo ngược và số phận long đong của những nho sĩ hiền tài không gặp thời, gặp vận. Các dẫn chứng tuy lấy từ sử sách của Trung Quốc cổ nhưng đều được lựa chọn để ngụ ý nói về hiện tình xã hội Việt Nam dưới triều đại nhà Nguyễn. Chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của nhà Nguyễn đã đẩy nhân dân vào cuộc sống đói khổ cùng cực. Không ít hiền tài chẳng những không được tin dùng mà còn bị vùi dập, đoạ đày. Cao Bá Quát là người tài cao mộng lớn nhưng thi nhiều lần mà chi đỗ đạt thấp. Bất mãn trước xã hội thối nát, ông đã tham gia phong trào khởi nghĩa của nông dân chống lạí triều đình nên bị giết chết. Bùi Hữu Nghĩa vì cương trực mà không tránh khỏi ngục tù. Nguyễn Công Trứ “một niềm trung trinh báo quốc” cuối cùng cũng bị biến thành “con rối làm trò cười cho thiên hạ”. Đằng sau những chuyện tác giả mượn từ sử sách xa xưa thấp thoáng bóng dáng hiện thực đang diễn ra trước mắt.
Tất cả những điều đáng ghét, đáng thương trong cuộc sống thường xuyên dội vào tâm tư Đồ Chiểu, con người nặng tình với dân với đời, khiến ông phải xót xa, đau đớn. Cho nên không có gì lạ khi nói tới chuyện đạo lí, kinh sử đời xưa mà giọng điệu ông Quán lại không nén được nỗi buồn giận, đắng cay. Tâm trạng của ông Quán được thể hiện qua những từ ngữ mộc mạc nhưng đầy sức mạnh và giàu cảm xúc, nóng hổi hơi thở của cuộc sống như: ghét cay ghét đắng, sa hầm sẩy hang, lằng nhằng rối dân, phui pha, ngùi ngùi… Lối dùng điệp ngữ dồn dập, cụm từ Thương ông, Thương thầy cũng lặp lại chín lần ở mười bốn câu, rất có hiệu quả trong việc diễn đạt thái độ ghét, thương dứt khoát, phân minh của tác giả. Ngoài ra, đoạn thơ còn sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong câu, ví dụ như: Vì chưng hay ghét >< cũng là hay thương, sa hầm >< sẩy hang, sớm đầu >< tối đánh, Chí thời có chi >< ngôi mà không ngôi, Sớm dâng lời biểu >< tối đày đi xa,… làm cho câu thơ nhịp nhàng, cân đổi, mang vẻ đẹp cổ điển. Tuy nhiên, phần lớn lời thơ trong Truyện Lục Vân Tiên mang tính chất khẩu ngữ cho nên mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người.
Đoạn trích Lẽ ghét thương qua lời ông Quán đã thể hiện tập trung tư tưởng thương dân, thương đời sâu sắc của Nguyễn Đình Chiểu. Vì thương dân, thương đời mà ông ghét bọn hôn quân, bạo chúa bất nhân. Vì thương dân, thương đời mà ông kính mến và xót xa cho các bậc hiền tài, tiếc rằng họ không có dịp đem tài năng để giúp đời. Đằng sau lẽ ghét thương là tấm lòng nhân ái sâu sắc, bao la của nhà thơ mù nổi tiếng đất Lục tĩnh Nam Kì.
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 2
Thật dễ tìm thấy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu những ví dụ để chứng minh ông là một nhà thơ đạo lí (bên cạnh nhà thơ yêu nước). Nhưng ví dụ vào loại tiêu biểu nhất và thường được người ta nhớ trước hết là đoạn thơ bàn về lẽ ghét thương trong Truyện Lục Vân Tiên. Đã bao nhiêu độc giả tìm thấy ở đây một bài học làm người thấm thìa, một tiêu chuẩn khen chê, đánh giá dáng tin cậy đối với các hạng người trong xã hội và đối với mọi hành vi chính tà, thiện ác ứ dời. Đặc biệt, qua đoạn thơ, độc giả có thể thấy rõ tư tưởng vì dân, vì đời của một con người đã được nhìn nhận như là biểu tượng của lương tâm đất nước trong giai doạn lịch sử nửa cuối thế kỉ XIX.
Đi vào đoạn thơ, điều cơ bản phải tìm hiểu là lẽ ghét thương được trình bày qua lời ông Quán, bao hàm trong đó tương quan biện chứng giữa thương và ghét ; đối tượng cụ thể cùng gốc rễ của thái độ thương ghét ; khả năng tác động của lẽ ghét thương đối với việc giáo dục con người và chấn hưng tình trạng suy đổi của đạo lí trong xã hội,… Nhưng trước hết ta không thể bỏ qua việc tìm hiểu hành trạng ông Quán. Ông là ai mà đạo lí do ông nêu lên được độc giả một thời mặc nhiên xem là chân lí, và đến hôm nay, vẫn còn có ý nghĩa, sức sống nhất dịnh ?
Ông Quán chỉ là nhân vật phụ, xuất hiện thoáng qua trong Truyện Lục Vân Tiên. Nhưng ấn tượng mà ông để lại là khá sâu đậm. Mới sơ kiến, Lục Vân Tiên và Vương Tử Trực đã thấy ông là người rất dáng nể trọng, có thể chí giáo cho họ về kinh nghiệm sống ở đời. Với Vương Tử Trực, ông chính là Phật vàng trong chùa rách, là kẻ có tài kinh luân ẩn ngụ ở nơi hèn mọn, tầm thường. Theo lô gích nghệ thuật riêng của loại truyện Nôm xưa vốn phân chia nhân vật ra hai phe chính, tà rõ rệt, một người được các nhân vật anh hùng, nghĩa hiệp như Tiên, Trực khen không tiếc lời hẳn phải thật sự đáng ca ngợi, và lời ông ta do vậy tất yếu phải có giá trị như châm ngôn. Khi đã xác định sẵn vị thế, tư cách như vậy cho ông Quán trong cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu có thể thoải mái nhờ ông phát biểu hộ những suy nghĩ của mình xung quanh vấn để đạo lí. Trong trường hợp này và riêng ở khía cạnh này, hoàn toàn có thể xem ông Quán chính là hiện thân của nhà thơ. Lời ông Quán nói thống nhất với lời tác giả, thể hiện trung thành tư tưởng của tác giả. Nhưng tác giả hiện diện qua đoạn thơ không phải với tư cách một cá nhân mà với tư cách người nhân danh đạo lí truyền thống. Thật là điéu tự nhiên khi rất nhiều ví dụ đã được rút ra từ kinh sử, tức là từ những tác phẩm có ý nghĩa thiêng liêng trong thời Nho học thịnh hành. Đây lại là một lí do nữa khiến lời của ông Quán có thêm nhiều trọng lượng, có thể được độc giả tiếp nhận không một chút nghi ngờ.
Bắt đầu lời bàn về lẽ ghét thương của mình, ông Quán nói ra một điều không phải là dễ hiểu, khiến Lục Vân Tiên thấy cần hỏi lại cho rõ. Đó là "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương". Hay ghét, hay thương là gì ? Tại sao lại cũng là ? Có thể hiếu rằng các cụm từ hay ghét, hay thương tự ông Quán dùng đã phản ánh rất chính xác độ nhạy của phản ứng ghét thương ở ông (từ hay trong văn cảnh này mang nghĩa chính là luôn xảy ra). Đối diện với cuộc đời và những con người cụ thể, tình cảm ghét thương cúa ông thường được biểu lộ tức thì, nồng nàn và rành mạch. Điều này cho thấy ông bề ngoài thì lánh đời nhưng bề trong thì luôn thao thức với thế sự, hằng bận tâm, bận trí về những điều đang xảy ra trong cõi nhân gian. Nhưng với cụm từ cũng là đặt giữa hay ghét và hay thương, ta hiểu điều cơ bản mà ông Quán muốn nói là mối quan hệ giữa hai phạm trù tình cảm này. Trong nhận thức phổ biến của người xưa, con người chí có thể và chỉ nên có một sự lựa chọn duy nhất, theo một hệ giá trị duy nhất. Bới vậy mới có "chuyện" cũng là – ghét bỏ, phản đối kẻ này, chuyện này cũng là biểu hiện của việc thương yêu, ủng hộ kẻ kia, chuyện kia mà thôi, tất cả cùng quy về một điểm. Dĩ nhiên, thương là gốc rễ của mọi thứ tình cảm khác. Nó bao trùm lên tất cả. Trong các yếu tố làm nên tình cảm thương, ngoài thương ra thì còn có ghét. Hiểu vấn đề như vậy, ta thấy dù cụm từ cũng là có vó đã đặt dấu bằng (=) giữa hai phạm trù thương và ghét, nhưng không thể hoán vị hai vế của "phương trình" theo lô gích toán học được ! Nói cách khác, nếu xem "Vì chưng hay gqhét cũng là hay thương" là một định lí, thì định lí đảo của nó sẽ mang một nội dung sai lầm hoặc phiến diện. Sau cụm từ cũng là hình như có một từ vì (cũng là vì) được nhà thơ cho ẩn đi.
Được Vân Tiên hỏi, ông Quán trước hết nói về sự ghét của mình :
Quán rằng : "Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời u, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng hề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quỷ phân băng,
Sớm dầu tối đánh lằng nhằng rối dân”.
Mọi đối tượng, sự việc bị ông Quán ghét mang một tính chất chung được chính ông thâu tóm trong hai từ tầm phào, hàm chứa ý vớ nghĩa lí. Đối với những thứ, những chuyện tầm phào đó, sự ghét được đẩy lên đến mức tuyệt đối. Có cảm tưởng khi kể với Vân Tiên, Tử Trực về chúng, lửa giận vẫn còn bừng bừng trong ông Quán. Giọng nói, lời thơ toát lên một sắc thái đay đả, chỉ chiết rất đặc biệt : "Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm". Thật là lời nói biểu thị một cá tính mạnh, có vẻ cực đoan, và hơn thế, biểu thị một lập trường dứt khoát, kiên định. Điêu đáng chú ý là tất cả những kẻ đáng ghét được ông nêu lên làm "dẫn chứng" đều thuộc tầng lớp cai trị, tầng lớp "hôn quân, bạo chúa" vốn có những hành dộng mê dâm, đa đoan, dối trá,…bị sử sách và người đời nguyền rủa. Tác hại của những hành động đó thật ghê gớm : để dân,…sa hầm sẩy hang, khiến dân…chịu lầm than muôn phần, làm dân nhọc nhằn, làm rối dân… Bao nhiêu lần từ dân được nhắc đến trong đoạn thơ ! Điều này thể hiện rõ tư tưởng vì dân của ông Quán và đằng sau đó là của Nguyễn Đình Chiểu. Nhà thơ cùng với nhân vật của mình đã lấy quyền lợi của dân làm căn cứ đánh giá, thẩm xét việc làm của giai cấp thống trị. Và như vậy, mối tương quan giữa ghét và thương được nêu khái quát ở đoạn đầu lời ông Quán đến đây đã được chứng minh. Ta không chỉ đọc thấy từ doạn thơ thái độ "Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm" mà còn cả niềm xót xa thương cảm nữa.
Ông Quán nói tiếp về những đối tượng khiến mình thương :
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.
Thương thầy Đổng Tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tôi dày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bi lời xua đuổi vê nhà giáo dân.
Độc giả hẳn không thấy ngạc nhiên khi những người ông Quán "thương" và nêu tên đều là những danh nhân mà cuộc đời và sự nghiệp đã được ghi rõ trong sử sách. Chẳng phải ông đang xác nhận với Vân Tiên, Tử Trực rằng mình là người đã từng dọc thông kinh sử đó sao ? (Trong truyện, trước lời của ông Quán là lời của Trực : …"lời nói hữu duyên – Thế trông kinh sử có tuyền cùng chăng ?"). Nhưng điều đáng lạ là chuyện kinh sử thông qua lời thuật kể nồng nàn của ông bỗng trở nên vô cùng sống động. Với lòng thương của kẻ hậu bối (từ thương vừa mang nghĩa cảm thông, thương xót, thương yêu, vừa mang nghĩa kính trọng, tôn thờ), những cái tên tưởng khô cứng ngày xưa đã hoá thành những hình ảnh, những con người thật cụ thể, gần gũi, tưởng như đang sống đâu đó quanh ta. Ta đọc thấy đằng sau mỗi lời thơ một mối đồng cảm sâu sắc đối với những con người hết lòng vì dân vì nước nhưng không được toại chí. Nếu đặt đoạn thơ này vào bối cảnh thời cuộc khi Nguyễn Đình Chiếu viết Truyện Lục Vân Tiên, ta còn nhận ra mối ưu tư của nhà thơ về việc nhiều người thức thời, có chí canh tân đất nước dã không được triều đình trọng dụng. Xã hội Việt Nam đang ở trong tình trạng bê bối và bao nhiêu người tài giỏi có thể giúp đời đã phải chịu số phận bi kịch. Muôn dân cũng vì thế mà phải sống trong cảnh đau khổ triền miên. Tuy trong doạn thơ vừa trích, từ dân chỉ được nhắc tới một lần nhưng ta hiểu hình ảnh người dân chưa bao giờ thôi ám ảnh tâm trí ông Quán – nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.
Ông Quán kết thúc lời bàn về lẽ ghét thương của mình bằng một câu :
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
Vẫn là cái ý trọng tâm đã nêu lên từ đầu bây giờ được láy lại mà thôi. Tuy nhiên, nếu câu "Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" nặng tính chất sự lí thì câu "Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương" nặng phần tình cảm, cảm xúc. Từ lại diễn tả rất hay trạng thái không cầm lòng được của một con người đã "trót" có tâm. Toát lên từ đây là một nỗi ngậm ngùi – cái ngậm ngùi của kẻ có học và trải sự đời. Chút xa vắng của tâm sự riêng hoà lẫn vào lời đàm luận về lẽ ghét thương khiến cho câu chuyện của ông Quán càng có thêm sức ám ảnh. Ông đang trầm giọng và cái giọng trầm ấy củng cố thêm trong ta ấn tượng : ta đang nghe không phải một bài giáo huấn đúng đắn nhưng khô khan mà đang nghe những lời tâm huyết không nổi ra không được hoặc "cực lòng nên phải nói ra". Thì đúng là theo chuyện kể, có phải ông Quán – một kẻ tâm sáng, trí sáng, có "tài lành" của bậc chính nhân quân tử về ẩn thân ở chốn dân dã – bỏng dưng mà mỡ miệng bàn thế sự đâu ? Rõ ràng, những tâm sự vốn chôn sâu đáy lòng, khi được nói ra, luôn mang theo một âm sắc đặc biệt, gợi lên rất nhiều suy nghĩ.
Ở trên đã nói, quan điếm thương ghét của nhân vật ông Quán cũng chính là quan điểm thương ghét của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Nó thuộc hệ thống tư tướng đạo lí của nho gia và không hoàn toàn mới mẻ. Tuy nhiên, việc nhà thơ nêu lại nó trong bối cảnh xã hội rối ren thời ông sáng tác Truyện Lục Vân Tiên, tại vùng dất mới Nam Bộ, vẫn mang một ý nghĩa hết sức tích cực. Chuyện thương ghét của muôn đời, cuối cùng, đã được nhà thơ cấp cho một nội dung lịch sử cụ thế cùng với điểm nhấn ở thái độ vì dân.
Đoạn thơ Lẽ ghét thương có một vẻ đẹp mộc mạc rất đặc trưng của Truyện Lục Vân Tiên và thậm chí là của toàn bộ thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, vẻ đẹp mộc mạc ấy toát lên từ tính cách bình dân của nhân vật; từ lời thoại bộc trực, thật thà ; từ lối dùng đại từ thể hiện lòng ngưỡng mộ chân thành thuần phác đối với những bậc tài đức (đức thánh nhân, thầy Nhan Tử, ông Gia Cát, thầy Đổng Tử, người Nguyên Lượng, ông Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc) ; thậm chí từ những chữ dùng có vẻ chưa được tinh tế lắm xét theo văn cảnh như phân vân, lằng nhằng, ngùi ngùi,… vẻ đẹp mộc mạc của hình thức, trong trường hợp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, lại tỏ ra hết sức hoà hợp với tư tướng vì dân mà nhà thơ muốn phát biểu. Thật là điều tất yếu khi đoạn thơ này cũng như toàn bộ Truyện Lục Vân Tiên chiếm được cảm tinh sâu sắc của nhiều thế hệ dộc giả Việt Nam.
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 3
Là một nhà thơ mù nhưng Nguyễn Đình Chiểu luôn chủ trương sáng tác văn học để chở đạo, đâm gian. Tác phẩm của ông vì thế luôn chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc. Ở đó bao giờ bạn đọc cũng bắt gặp những tình cảm rõ ràng cụ thể: yêu – ghét, cảm thông, căm giận… Những tình cảm ấy có thể được tác giả bộc lộ một cách trực tiếp trong các tác phẩm: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh…, cũng có thể gián tiếp gửi gắm qua phát ngôn của nhân vật. Và thái độ, tình cảm của ông Quán trong Lẽ ghét thương (Trích Lục Vân Tiên) là một ví dụ tiêu biểu.
Lẽ ghét thương là những lời thơ tâm huyết về nỗi ghét tình thương nhân bản của Nguyễn Đình Chiểu. Và trong tình huống này, nhân vật ông Quán trở thành cái loa phát ngôn cho chính tác giả. Những tình cảm yêu, ghét rạch ròi của ông Quán nói ra ngay sau khi chúng biến cảnh Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm và Trịnh Hâm cùng thi tài xướng hoạ tại quán ăn của mình.
Đoạn trích có 26 câu thơ thì có tới 16 câu thơ nói về tình thương. Như vậy số câu thơ về tình thương yêu con người đã quá nửa. Bản thân Nguyễn Đình Chiểu cũng đã từng nói Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương. Quả thực khi suy ngẫm kĩ những câu thơ này, ta sẽ thấy gốc rễ, nguyên nhân sâu xa của nỗi ghét chính là tình thương dân sâu sắc.
Tình thương chính là điểm tựa, là động lực tinh thần để nhà thơ lên tiếng phê phán những bọn xấu xa, những kẻ độc ác. Sở dĩ ông Quán ghét cay ghét đắng những chuyện tầm phào, những cái đa đoan, những cái dối trá, những trò mê dâm là vì chúng làm rối dân, làm dân luống chịu lầm than muôn phần. Mỗi lần nhắc đến một đối tượng đáng ghét, đáng lên án ấy sẽ là một lần tác giả thêm một câu bình luận về tội ác của chúng gây cho dân lành:
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần…
Và trong 10 câu thơ nói về lẽ ghét thì có tới bốn câu thơ nói về cung bậc, mức độ khác nhau trong nỗi khổ mà dân lành phải gánh chịu:
– Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang.
– Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
– Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
– Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân.
Nếu như những câu thơ nói về lẽ ghét thương thể hiện nỗi kinh bỉ, tức giận thì đến những câu thơ này giọng thơ đột ngột chậm thể hiện sự thông cảm, chia sẻ của nhà thơ đối với nhân dân.
Để giãi bày những lời tâm huyết về nỗi ghét này được sâu đậm, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nghệ thuật điệp từ. Chỉ có 10 câu thơ đầu tác giả đã sử dụng tới 8 từ ghét. Riêng câu thơthứ hai đã có tới 3 từ:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Cay , đắng là những từ dùng để chỉ mùi vị, ở đây cay, đắng không phải dùng như một sự lạ hoá ngôn từ, mà nó dùng để diễn tả độ sâu tăng dần của cái ghét. Sự kết hợp của các điệp từ ghét với sự tăng cấp về mức độ, nhà thơ đã hé mở cho độc giả biết cái ghét, đối tượng bị ông Quán ghét không chỉ thuộc phạm vi một thời đại nào mà nó có trong mọi thời đại.
Vì thế nỗi ghét ở đây là đổi gam, đổi chất, không chỉ dừng ở thái độ bên ngoài, mà nó đã ăn sâu vào máu, vào huyết quản, ghét vào tận tâm của ông. Cái gọi là ghé của ông Quán thực chất là lòng chăm thù. Ông căm thù tất cả những bọn làm ảnh hưởng, làm tổn hại đến cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân dân sâu sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Đối lập với nỗi ghét, lòng căm thù là tình thương. Ông Quán đã tự bạch về tình thương của mình trong mười sáu câu thơ. Chỉ mười sáu câu thơ nhưng nó làm hiển hiện cả cõi lòng của một con người, thể hiện một cách sâu sắc sự cảm thông, xót xa của ông Quán đối với những bậc hiền nhân quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, muốn hành đạo giúp vua, cứu dân nhưng không thành.
Người được nhắc đến đầu tiên trong đoạn thơ nói về tình thương là Khổng Tử – người đã gặp rất nhiều gian lao vất vả khi truyền đạo:
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.
Ông thương đến cả người chết yểu mà công danh chưa đạt:
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh
Ông lại thương cả những người không gặp vận may, những ông quan thanh liêm không gặp thời…
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha…
…Thương thầy Liêm, Lạc đã xa
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Nếu như ở mười câu đầu Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật nói lên lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân, thì ở đoạn sau tác giả lại cho nhân vật bộc lộ trực tiếp lòng thương đối với những người có tài cao chí lớn, muốn phò vua giúp đời mà gặp phải bất hạnh nên nguyện vọng cứu dân không thực hiện được. Và để thể hiện tình cảm thương yêu đầy tình nhân bản đó, nhà thơ đã điệp đi điệp lại từ thương tới chín lần. Nó không chỉ thể hiện được tình thương yêu tha thiết ông dành cho từng đối tượng cụ thể mà còn bộc lộ một tình cảm, tình thương bao la rộng lớn dành cho số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệp của tạo hoá và xã hội.
Trích đoạn Lẽ ghét thương tuy không dài nhưng được tác giả tổ chức sắp xếp khá chặt chẽ, mạch lạc. Sự kết hợp giữa việc sử dụng điệp từ ghét, thương với nghệ thuật bố cục chặt chẽ không chỉ tạo được sự rõ ràng trong ý thơ mà còn tạo cho đoạn thơ có giọng điệu vừa trang nghiêm vừa thống thiết – một nét đặc trưng của điệu thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.
Như vậy thông qua nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm những lời tâm huyết về nỗi ghét thương. Nó không chỉ thể hiện một tâm hồn giàu tình yêu thương mà còn thể hiện một tinh thần nhân bản sâu sắc.
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 4
Đoạn trích Lẽ ghét thương chinh phục người đọc bởi tính nhân đạo, bởi tình cảm yêu ghét phân minh và tấm lòng nhiệt thành với chính nghĩa, là nét đặc trưng tính cách của con người Nam Bộ…
Là một nhà thơ mù nhưng Nguyễn Đình Chiểu luôn chủ trương sáng tác văn học để chở đạo, đâm gian. Tác phẩm của ông vì thế luôn chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc. Ở đó bao giờ bạn đọc cũng bắt gặp những tình cảm rõ ràng cụ thể: yêu – ghét, cảm thông, căm giận… Những tình cảm ấy có thể được tác giả bộc lộ một cách trực tiếp trong các tác phẩm: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh…, cũng có thể gián tiếp gửi gắm qua phát ngôn của nhân vật. Và thái độ, tình cảm của ông Quán trong Lẽ ghét thương (Trích Lục Vân Tiên) là một ví dụ tiêu biểu.
Lẽ ghét thương là những lời thơ tâm huyết về nỗi ghét tình thương nhân bản của Nguyễn Đình Chiểu. Và trong tình huống này, nhân vật ông Quán trở thành cái loa phát
ngôn cho chính tác giả. Những tình cảm yêu, ghét rạch ròi của ông Quán nói ra ngay sau khi chúng biến cảnh Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Bùi Kiệm và Trịnh Hâm cùng thi tài xướng hoạ tại quán ăn của mình.
Đoạn trích có 26 câu thơ thì có tới 16 câu thơ nói về tình thương. Như vậy số câu thơ về tình thương yêu con người đã quá nửa. Bản thân Nguyễn Đình Chiểu cũng đã từng nóiBởi chưng hay ghét cũng là hay thương. Quả thực khi suy ngẫm kĩ những câu thơ này, ta sẽ thấy gốc rễ, nguyên nhân sâu xa của nỗi ghét chính là tình thương dân sâu sắc.
Tình thương chính là điểm tựa, là động lực tinh thần để nhà thơ lên tiếng phê phán những bọn xấu xa, những kẻ độc ác. Sở dĩ ông Quán ghét cay ghét đắng những chuyện tầm phào, những cái đa đoan, những cái dối trá, những trò mê dâm là vì chúng làm rối dân, làm dân luống chịu lầm than muôn phần. Mỗi lần nhắc đến một đối tượng đáng ghét, đáng lên án ấy sẽ là một lần tác giả thêm một câu bình luận về tội ác của chúng gây cho dân lành:
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần…
Và trong 10 câu thơ nói về lẽ ghét thì có tới bốn câu thơ nói về cung bậc, mức độ khác nhau trong nỗi khổ mà dân lành phải gánh chịu:
– Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hoang.
– Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
– Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
– Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân.
Nếu như những câu thơ nói về lẽ ghét thương thể hiện nỗi kinh bỉ, tức giận thì đến những câu thơ này giọng thơ đột ngột chậm thể hiện sự thông cảm, chia sẻ của nhà thơ đối với nhân dân.
Để giãi bày những lời tâm huyết về nỗi ghét này được sâu đậm, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nghệ thuật điệp từ. Chỉ có 10 câu thơ đầu tác giả đã sử dụng tới 8 từ ghét. Riêng câu thơthứ hai đã có tới 3 từ:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Cay , đắng là những từ dùng để chỉ mùi vị, ở đây cay, đắng không phải dùng như một sự lạ hoá ngôn từ, mà nó dùng để diễn tả độ sâu tăng dần của cái ghét. Sự kết hợp của các điệp từ ghét với sự tăng cấp về mức độ, nhà thơ đã hé mở cho độc giả biết cái ghét, đối tượng bị ông Quán ghét không chỉ thuộc phạm vi một thời đại nào mà nó có trong mọi thời đại.
Vì thế nỗi ghét ở đây là đổi gam, đổi chất, không chỉ dừng ở thái độ bên ngoài, mà nó đã ăn sâu vào máu, vào huyết quản, ghét vào tận tâm của ông. Cái gọi là ghé của ông Quán thực chất là lòng chăm thù. Ông căm thù tất cả những bọn làm ảnh hưởng, làm tổn hại đến cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân dân sâu sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Đối lập với nỗi ghét, lòng căm thù là tình thương. Ông Quán đã tự bạch về tình thương của mình trong mười sáu câu thơ. Chỉ mười sáu câu thơ nhưng nó làm hiển hiện cả cõi lòng của một con người, thể hiện một cách sâu sắc sự cảm thông, xót xa của ông Quán đối với những bậc hiền nhân quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, muốn hành đạo giúp vua, cứu dân nhưng không thành.
Người được nhắc đến đầu tiên trong đoạn thơ nói về tình thương là Khổng Tử – người đã gặp rất nhiều gian lao vất vả khi truyền đạo:
Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông.
Ông thương đến cả người chết yểu mà công danh chưa đạt:
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh
Ông lại thương cả những người không gặp vận may, những ông quan thanh liêm không gặp thời…
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha…
…Thương thầy Liêm, Lạc đã xa
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Nếu như ở mười câu đầu Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật nói lên lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân, thì ở đoạn sau tác giả lại cho nhân vật bộc lộ trực tiếp lòng thương đối với những người có tài cao chí lớn, muốn phò vua giúp đời mà gặp phải bất hạnh nên nguyện vọng cứu dân không thực hiện được. Và để thể hiện tình cảm thương yêu đầy tình nhân bản đó, nhà thơ đã điệp đi điệp lại từ thương tới chín lần. Nó không chỉ thể hiện được tình thương yêu tha thiết ông dành cho từng đối tượng cụ thể mà còn bộc lộ một tình cảm, tình thương bao la rộng lớn dành cho số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệp của tạo hoá và xã hội.
Trích đoạn Lẽ ghét thương tuy không dài nhưng được tác giả tổ chức sắp xếp khá chặt chẽ, mạch lạc. Sự kết hợp giữa việc sử dụng điệp từ ghét, thương với nghệ thuật bố cục chặt chẽ không chỉ tạo được sự rõ ràng trong ý thơ mà còn tạo cho đoạn thơ có giọng điệu vừa trang nghiêm vừa thống thiết – một nét đặc trưng của điệu thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.
Như vậy thông qua nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm những lời tâm huyết về nỗi ghét thương. Nó không chỉ thể hiện một tâm hồn giàu tình yêu thương mà còn thể hiện một tinh thần nhân bản sâu sắc.
Phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương (trích Lục Vân Tiên) của Nguyễn Đình Chiểu – Bài làm 5
Xuân Diệu đã nhận xét rất đúng: “Nguyễn Đình Chiểu đã viết đoạn thơ thương ghét trứ danh. Thật ra từ ngàn đời trước, đó là tình cảm phổ biến của nhân dân, và nhiều thi sĩ trước kia đã có những vần thơ về tà, chính; nhưng viết ra tập trung thành mấy chục câu thơ giản dị, phân minh, rõ ràng, sắc nét, có nhạc điệu, có tâm tình, khiến ai cũng phải thuộc, thì ai đã viết một cách điển hình như vậy ngoài Nguyễn Đình Chiểu”
Đây là đoạn trích lời phát biểu của ông Quán khi chứng kiến cảnh Vân Tiên, Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm thi tài xướng họa tại quán của ông. Kiệm, Hâm bất tài, làm thơ không ra, lại nghi hoặc đổ thừa cho Tiên và Trực làm thơ nhanh là do chép thơ cổ nhân, ông Quán bật cười, khuyên Tiên nên biết chọn bạn. Tiên xin ông nói cho lẽ ghét thương ở đời, nhân đó mà ông Quán có đoạn phát biểu như trong đoạn trích “Lẽ ghét thương"
Trong đoạn văn trên ông Quán đã trình bày 10 dòng về ghét, 14 dòng về thương và kết lại hai câu “nửa phần ghét, nửa phần thương” ở đời.
Ồng Quán đã ghét những gì? Qua bốn điều ghét: ghét đời Kiệt, Trụ, ghét đời u, Lẽ, ghét đời Ngũ Bá, ghét đời Thúc Quý, ta thấy ông Quán ghét các chế độ xã hội thối nát, đạo đức suy đồi, dối trá, hèn hạ, dâm dục… đã làm cho nhân dân điêu đứng “sa hầm sẩy hang”. Qua bốn điều ghét ta cũng thấy Nguyễn Đình Chiếu đã có một tiêu chuẩn về cái đáng ghét rất rõ ràng: Cái gì làm khổ dân, nhũng nhiễu dân, gây hại cho dân đều đáng ghét cả.
Mức độ căm ghét của ông cũng hết sức sâu sắc. Mấy chữ sau đây nghe như dao khắc vào đá, sâu đậm, không phai mờ:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ông Quán đã thương những gì? Qua bảy điều thựơng ta thấy ông thương toàn nhà nho nổi tiếng, từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường-Tống. Vì sao lại thương họ? Ông thương đời họ dở dang, gặp bước gian truân, không có điều kiện phát huy đầy đủ tài năng và đức độ của họ. Nhìn chung lại ông Quán thương người có tài, có đức gặp khó khăn bị dang dở, bị hãm hại. Qua mấy điều thương này ta thấy ông Quán hết sức thương xót những bậc có tài cao, đức trọng ở đời.
Điều đáng chú ý nhất trong đoạn văn này là trong ghét có thương, trong thương có ghét. Khi nói tới ghét các đời đa đoan lời văn đã để lộ một niềm thương yêu lớn: thương dân. Khi nói tới niềm thương, lời văn toát ra niềm ghét, ghét kẻ tiểu nhân xua đuổi kẻ hiền tài.
Tổng hợp lại ông Quán thương nhân dân, thương hiền tài, ghét xã hội thối nát, ghét kẻ tiểu nhân đê tiện, cội nguồn của mọi bất hạnh trong đời.
Lẽ ghét thương của ông Quán cũng chính là lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, chứng tỏ nhà thơ hoàn toàn đứng về phía nhân dân, chính nghĩa.
Sự lặp lại những từ “ghét đời”, “thương là”, “thương người”… có ý nghĩa như một dấu hiệu liệt kê. Sau mỗi tiếng ấy người đọc đợi chờ thêm một hiện tượng đáng ghét, điều thương ở đời.
Sự lặp lại gây tác dụng biêu cảm, biểu hiện một nguồn tình cảm dào dạt, lai láng tuôn chảy không thôi trong trái tim ông Quán và trái tim nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.
Mấy câu thơ:
Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đáng, ghét vào tận tâm
Là những câu rất hay. Hai câu thơ mà bốn chữ ghét, nói lên cường độ sâu đậm của tình cảm. Hơn nữa mấy chữ ghét lại được sắp xếp theo nhịp điệu tự nhiên, nhịp nhàng có tác dụng khắc sâu. Cách dùng từ diễn đạt lại là cách dùng khẩu ngữ: “ghét cay ghét đắng”, “ghét chuyện tầm phào”, hồn nhiên, bộc trực, không một chút quanh co. Vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn Đình Chiểu là vẻ đẹp bộc trực, thẳng thắn, dứt khoát, và do đó mà mạnh mẽ.