Bình giảng bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu – Văn hay lớp 11
Bình giảng bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu – Bài làm 1 Xuân Diệu được xem là “Ông hoàng thơ tình” Việt Nam với những sáng tác đượm chữ tình, chữ nhớ, chữ thương. Đọc thơ Xuân Diệu người ta nhận ra một nỗi buồn lan nhẹ, một nỗi sầu mênh mang nhưng chất chứa tình ...
Bình giảng bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu – Bài làm 1
Xuân Diệu được xem là “Ông hoàng thơ tình” Việt Nam với những sáng tác đượm chữ tình, chữ nhớ, chữ thương. Đọc thơ Xuân Diệu người ta nhận ra một nỗi buồn lan nhẹ, một nỗi sầu mênh mang nhưng chất chứa tình yêu với vạn với, với con người. Thơ Xuân Diệu có nét buồn nhân thế, vì đó là cảm hứng chung của các nhà thơ trong phong trào Thơ mới, nhưng cái buồn của ông cũng có nét riêng khác biệt. “Đây mùa thu tới” là một bài thơ thu nhẹ nhàng và sâu lắng như vậy.
Kỳ thực mùa thu không phải là đề tài mới mẻ nhưng trong thơ của Xuân Diệu thì nó luôn mới luôn biến đổi theo mạch cảm xúc. Tác giả đã mở đầu bằng một hình ảnh buồn, đầy tang thương:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông lệ xuống ngàn hàng
Nàng thu của Xuân Diệu có một sự chuyển động rất nhẹ, tinh tế, cứ ngỡ như chỉ cần một động thái nhỏ sẽ làm mùa thu ấy tan ra. Hình ảnh cây liễu không hiếm trong những vần thơ với sự yếu ớt, mỏng manh, e lệ; nhưng trong thơ Xuân Diệu nó lại mang một nỗi buồn sầu thương, cô đơn hơn nữa. Liễu “đứng chịu tang” là một ý nghĩ táo bạo của Xuân Diệu. Một sự liên tưởng thật nhạy bén và sâu sắc. Đúng vậy mùa thu luôn buồn, buồn man mác, buồn bâng khuâng, buồn đến “đìu hiu”. Từ láy này đã gợi tả hết cái thần thái của mùa thu. Cành cây liễu buông thõng xuống mặt hồ mà tác giả cứ ngỡ đang chảy “lệ”. Có lẽ Xuân Diệu đã nâng niu mùa thu một cách nhẹ nhàng và ân ái nhất.
Và mùa thu thực sự đến trong thơ ông khi tiếng reo vui được cất lên:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Một tiếng reo vui nhỏ nhẹ nhưng tràn đầy hào hứng, tràn đầy tin yêu. Tác giả dường như bị mùa thu đánh thức sau một giấc ngủ thật dài, thật lâu. NHưng ẩn sâu trong tiếng reo vui ấy thoảng qua một nỗi buồn nhân tình thế thái, bởi rằng mùa thu luôn gợi chữ buồn mênh mang. Đường nét của mùa thu thật nhẹ nhàng, tinh tế biết bao khi hình ảnh “áo mơ phai dệt lá vàng”. Có lẽ đó là nắng của mùa thu, thứ nắng dịu nhẹ, tinh khiết nhất.
Bức tranh của mùa thu bắt đầu hiện rõ nét hơn qua những cảm nhận của tác giả:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Một khu vườn mùa thu trọn vẹn, thần thái của mùa thu được lột tả một cách tinh tế và khéo léo nhất. Mùa thu là mùa rụng lá, mùa của sự chia ly không báo trước, sự sống mỏng manh đang sợ thời gian trôi đi, sợ ngày tàn đêm buộng, mọi vật cũng dần trôi vào mơ hồ. Thiên nhiên luôn khắc nghiệt như vậy, mọi thứ mang một dáng vẻ lo âu, sợ sệt. Những câu thơ với nhịp điệu vang lên dồn dập đến tái tê bởi làn gió xuân “run rẩy”.
Mùa thu dường như mỏng manh hơn, đau buồn hơn. Tác giả dùng tư “hơn một” để nói đến sự biến đổi không ngừng của thiên nhiên, của vạn vật. TÍnh ước lệ tượng trưng trong thơ Xuân Diệu dường như khiến con người ta cảm thấy xót xa hơn thì phải? HÌnh ảnh “sắc đỏ rủa màu xanh” là nét sáng tạo mới của tác giả, một sự chuyển đổi tinh tế, sâu sắc.
Đến những câu thơ cuối người đọc dường như cảm nhận cái buồn thêm tê tái hơn:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Môt sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế và khéo léo qua từ “nghe”. Sao tác giả có thể nghe được”rét mướt” nhỉ, hẳn là một sự nhạy bén và tinh tế trong sâu thẳm trái tim đang run rẩy của thi sĩ. Hình ảnh nàng trăng hiện lên huyền ảo, mơ hồ nhưng cũng chất chứa nỗi niềm sâu thẳm. Trăng “tự ngẩn ngơ” là một dụng ý nghệ thuật cực kỳ đắc điệu của tác giả, một ánh trăng đẹp, thướt tha nhưng lại gợi sầu, gợi buồn đến mênh mang.
Hình ảnh con người bắt đầu xuất hiện ở hai câu thơ kết mang nhiều suy ngẫm và liên tưởng của tác giả:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Tác giả đang hỏi người hay tự hỏi mình, hỏi nhân thế sao chữ buồn cứ nằng nặc bám theo dai dẳng đến vậy. Mùa thu nhẹ nhàng, tinh tế như người thiếu nữ. Con người khi thu đến thường chìm vào u uẩn, vẫn khao khát yêu đương đấy nhưng lại “buồn không nói”. DƯờng như nỗi lòng của những con người trong phong trào thơ mới đều có nỗi niềm chất chứa không biết ngỏ cùng ai như thế.
Mùa thu trong thơ xuân diệu thật đẹp nhưng cũng thật buồn, có chăng đây chính là sự khác biệt tạo nên một xuân diệu mà chúng ta thường biết đến. “Đây mùa thu tới” mang đến cho người đọc nhiều xúc cảm neo đậu mãi.
Bình giảng bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu – Bài làm 2
Thu là một đề tài mà rất nhiều nhà thơ chọn cho mình để gửi chọn những tình cảm cảm xúc về thiên nhiên đất trời. Nếu như Hữu thỉnh có bài Sang Thu, Nguyễn Khuyến có chùm thơ thu bà bài thì Xuân Diệu một người yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt cuống quýt cũng viết lên bài thơ Đây mùa thu tới. Có thể nói mỗi một bài thơ thu đều có một cách khám phá riêng và bài thơ của Xuân Diệu cũng thế. Bằng những hình ảnh thiên nhiên đẹp tứ thơ Đây mùa thu tới cứ dào dạt trong lòng mỗi người đọc.
Mở đầu bài thơ Xuân Diệu mang đến cho chúng ta những hình ảnh thiên nhiên báo hiệu một mùa thu sắp đến:
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Tín hiệu của mùa thu sang được nhà thơ thể hiện qua hình ảnh liễu đứng chịu tang, đìu hiu và lệ ngàn hàng. Bằng biện pháp nghệ thuật nhân hóa rặng liễu đứng ven hồ được ví von như một người con gái đẹp kiều diễm tha thướt. Thế nhưng liễu thường được chỉ cho mùa xuân với nét đẹp xuân xanh thế mà ở đây nhà thơ lại sử dụng hình ảnh liễu để nói về mùa thu. Dùng hình ảnh ấy để tác giả nói đến cái buồn lãng mạn của mùa thu. Vì hình ảnh những hàng liễu rủ giống như mái tóc của người con gái buông xuống mặt hồ. Rồi nó lại giống như những giọt nước mắt buồn của người con gái ấy. Vậy nên cao sang mà buồn, buồn nhưng lại đẹp. Rõ ràng liễu không giống như những giọt nước mắt mà ta cảm nhận được liễu đang khóc, để tang cho một mùa hè rực rỡ đi qua. Điệp ngữ ‘ đây mùa thu tới” như thể hiện được một tiếng reo vui trước bước đi của mùa thu. “Đây” thể hiện sự xưng danh giới thiệu còn điệp ngữ kia như sự hân hoan của nhà thơ không thể giấu giếm mà bộc phát thành lời reo vui. Phong cảnh khởi sắc với màu áo mới đó là màu áo mơ phai chỉ có mùa thu mới có. Màu của rừng lá nhạt nhòa gợi lên cái sự tàn phai của màu thu.
Sang khổ thơ thứ hai chúng ta nhận thấy rằng khi tiết trời sang thu theo quy luật tự nhiên mọi vật đều chuyển sang phai tàn rơi rụng. Xuân Diệu đã vẽ lên trước mắt chúng ta một cảnh tưởng vô cùng đẹp nhưng lại mang dấu hiệu của sự rơi rụng thiên nhiên hay cũng chính là sự rơi rụng trong tâm hồn con người.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Ở đây nhà thơ không dùng những từ như “ dăm ba”, “năm bảy” mà lại dùng cụm từ “hơn một loài hoa’ để chỉ cho sự tàn phai của hoa lá. Cụm từ ấy có nghĩa là một vài, đã mấy nhưng cũng phải là nhiều. Nói như thế là một cách nói rất nghệ thuật, hơn một chứ chưa chắc đã là nhiều. Đó mới chỉ là những bước chuyển động đầu tiên của mùa thu mà thôi, rất nhẹ nhàng. Có thể nói câu thơ mang đến mọt nỗi buồn lớn, gây ấn tượng mạnh về sự rơi rụng. Hoa vốn là biểu tượng của cái đẹp thế mà mùa thu tới cái đẹp lại tàn phai rơi rụng gây cảm giác tiếc nuối mất mát trong lòng người. Động từ “rủa” thể hiện sự ngấm dân, gặm dần từng chút một màu xanh tươi của lá, thay vào đó sắc đỏ vàng đặc trưng của mùa thu.. Qua đây người đọc cảm nhận được bước chân thu đi thật nhẹ nhàng, êm ái mà không kém phần bền bỉ mãnh liệt. trong khi ấy những cái lạnh của thời tiết cũng được nhà thơ nhắc đến. Với biện pháp nghệ thuật điệp phụ âm đầu “run rẩy rung rinh” đã mang đến cho người đọc cái cảm giác se lạnh của mùa thu. Không cần nói đến cái chữ se lạnh tỏng câu thơ của mình mà chỉ cần qua hình ảnh của cành hoa ấy ta thấy được những se lạnh của gió thu đang luồn lách qua những lá cây kia. Mùa thu đến cây cối đang xanh tươi tràn trề nhựa sống thay vào đó sự khô gầy, héo úa tàn tạ. Nó giống như những bộ xương khô gầy yếu ớt và đơn độc. Bởi vì lá đã theo gió mà đáp mình xuống dưới đất, hay cũng như bị cơn gió kia lối cuốn mà lìa cành bay theo. Nhà thơ cảm nhận mùa thu bằng thị giác, cảm giác, xúc giác. Dường như thi sĩ còn mang đến cho cảnh thu cái xôn xao run rẩy của lòng mình.
Mùa thu bắt đầu quyết liệt hơn, đến nhanh nhẹn hơn thể hiện qua những ánh trăng ngẩn ngơ, non xa mờ trong sương sớm:
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vằng người sang những chuyến đò
Tác giả nhân hóa trăng thu như nàng thiếu nữ tự ngẩn ngơ, không hiểu nỗi lòng mình. Đó là cái ngẩn ngơ rất thu, nhỏ nhoi, mờ nhạt. Còn dãy núi thì bắt đầu bằng ngày mới bằng một màu mờ nhạt thấp thoáng trong màn sương ấy. Ta như cảm nhận được hơi sương mờ nhạt mang đến cảm giác bàng bạc mơ hồ. Tiếp đến câu thơ thứ ba nhà thơ sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác. Cái rét mướt kia được cảm nhận qua cảm giác chứ không phải là thính giác thế nhưng tác giả đã rất lạ ở chỗ đó. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ đã cho thấy được sự quạnh quẽ, vắng vẻ hoang vu trên mỗi chuyến đò bến đò. Thu đang đến mà như đã sắp qua để nhường cho mùa xuân cạn kề. cảnh vật trong khổ thơ được miêu tả từ trên cao xuống dưới trong trạng thái lạnh lẽo tàn phai. Nó khắc họa bước đi nghiệt ngã của thời gian.
Nhà thơ như hướng tầm mắt của mình lên cao và nhìn thấy những áng mây bàng bạc hiện lên cùng với đó là hình ảnh những cánh chim bay đi như thả mình vào cõi vĩnh hằng:
“ Mây vẩn tầng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Ở hai câu đầu sự chia ly diễn ra trong lòng cảnh vật. Chim bay đi tránh rét, nỗi buồn chia ly ngập tràn không gian tạo thành một nỗi sầu hận u uất. Nêu như nhà thơ bắt đầu bằng hình ảnh cây liễu giống như cô gái thì kết thúc bài thơ tác giả cũng nhắc đến hình ảnh cô gái. Cô gái ấy đang làm gi?, Trong thơ Xuân Diệu mọi vẻ đẹp đều được so sánh với vẻ đẹp của người con gái. Nói cách khác vẻ đẹp của con người trở thành chuẩn mực của vẻ đẹp thiên nhiên. Cô gái ấy ngồi tựa cửa mà nhìn xa, cái nhìn xa xăm những thứ hiện ra trước mắt thì không thấy mà chỉ thấy những gì trong tâm trí đang hiện ra. Cô thiếu nữ ấy đang buồn không nói tựa cửa trông xa để nghĩ ngợi.
bài thơ mở đầu bằng mái tóc của người con gái qua hình ảnh rặng liễu, kết thúc cũng bằng hình ảnh người con gái qua ánh mắt xa xăm vô định. Điều đó thể hiện được những thu đến đẹp như mái tóc, đôi mắt người con gái vậy. Qua đây nhà thơ đã mang đến một bức tranh thu của mình trong triển lãm những bức tranh thu. Và nếu ai một lần chiêm ngưỡng bức tranh thì không thể nào quên được vẻ đẹp lãng mạn buồn phảng phất của nó.