Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân – Bài làm 1 “Trèo lên cây bưởi hái hoa… ” là bài ca dao độc đáo gồm 10 câu song thất lục bát. Giai thoại văn học của giáo sư Vũ Ngọc Khánh cho biết đây là lời đối ...
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân – Bài làm 1
“Trèo lên cây bưởi hái hoa… ” là bài ca dao độc đáo gồm 10 câu song thất lục bát. Giai thoại văn học của giáo sư Vũ Ngọc Khánh cho biết đây là lời đối đáp giữa chúa Trịnh Tráng và Đào Duy Từ trong thế kỉXVII, khi Đào Duy Từ đã trở thành bề tôi đắc lực của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Trịnh Tráng gửi thư muốn lôi kéo Đào Duy Từ ra Đàng Ngoài, nhưng việc bất thành. Đó là giai thoại. Trên một ý nghĩa khác, bài "Trèo lên cây bưởi hái hoa… " được lưu truyền và cảm nhận là một bài ca dao tình yêu mang tính bi kịch "dầu lìa ngóý còn vương tơ lòng". Duyên xưa dù lỡ hẹn, nhưng vẫn “để thương, để nhớ, để sầu cho ai… "
Năm tháng đã trôi qua, tuổi xuân trinh trắng đâu còn. Chuyện trăm năm không thể có được nữa rồi, nhưng chàng trai vẫn không nén nổi tình cảm, đành phải thốt lên than thở. Nuối tiếc bao nhiêu thì lại đau buồn bấy nhiêu. Hái hoa bưởi… rồi lại hái nụ tầm xuân, anh đã “trèo lên" rồi lại "bước xuống", khác nào anh đã “cầm vàng mà lội qua sông… ”
“Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuốngvườn cà hái nụ tầm xuân”
Mùa xuân đã qua rồi, hoa bưởi đã kết trái, thời con gái son trẻ đâu còn nữa, giờ đây “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc”. Một cách nói, một ẩn dụ biểu lộ một ý tứ tế nhị, dịu dàng. Trước thực tế phũ phàng, chàng trai chí còn biết thở dài ngao ngán:
“Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay! ”.
"Anh tiếc lắm thay” bởi lẽ “Vàngrơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng”. Sao anh chẳng buồn chẳng tiếc?
“Từphen ra tới giangtân,
Sơm theo dặm tuyết, đêm lần ngàn mưa.
Tiếc cônganh chứa nước đan lờ,
Để cho con cá vượt bờ nó đi… ”
Em xinh em giòn như nụ tầm xuân, em trinh trắng như hoa bưởi bởi thế nên trước nông nỗi này "Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay! ” Đó là lời than, là nỗi đau muôn đời, nỗi hận khôn nguôi. Tâm trạng ấy của anh trai cày cũng là tâm trạng của chàng Trương Chi ngày xửa ngày xưa:
“Kiếp này đã dở dang nhau,
Thìxinkiếp khác duyên sau lại thành…”
Sáu câu ca tiếp theo là lời phân trần của cô gái. Cô trách “cố nhân” ngập ngừng, chậm trễ. Em đã trải qua chín đợi mười chờ: “Chờ chàng xuân mãn hè qua – Bông lan đã nở, sao mà vắng tin!
"Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳnghỏi những ngày còn không ”
Còn có dị bản: "Vẻ chi một mớ trầu cay ”, đọc lên nghe ý vị hơn. Chuyện trăm năm đành dang dở. Hai tiếng hỏi "Sao anh ” vừa trách móc vừa an ủi. Tình yêu phải đi đến một hôn nhân. Phải dạm trầu bỏ ngõ. "Sao anh chẳng hỏi nhữngngày còn không? “Ngày còn không” là ngày em còn con gái, còn ở với mẹ cha. Tục ngữ có câu: “Gái có chồng như gông đeo cổ – Trai có vợ như lỗtiền chôn'. Gái về nhà chồng đâu còn tự do nữa. Lễ giáo và đạo đức (tam tòng, tứ đức), anh có hiểu chăng?
"Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn cấu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thủơnào ra?”
Hai so sánh liên tiếp: "Như chim vào lồng, như cá cắn câu ” diễn tả thật đắt cảnh ngộbó buộc, chật hẹp của gái "đãcó chồng”. Hai câu hỏi tu từ xuất hiện thể hiện một bi kịch trong tình yêu: vẫn còn quyến luyến “người xưa ” nhưng không thể nào vượt ra ngoài khuôn khổ của đạo lí, của lễ giáo. Những vần trắc (gỡ – thuở) của hai câu thất ngôn cuối đoạn làm cho âm điệu câu thơ bị thắt lại, bị nén lại như nỗi đau chứa chất trong lòng, như một tiếng thở dài ngao ngán. Bài ca dao buông lửng. Lứa đôi chỉ còn biết an bài theo số phận, bởi lẽ "cá biết đâu mà gỡ” khi đã cắn câu? "Chim biết thủơ nào ra” khi đã vào lồng? Lứa đôi tuy chẳng đưa được con thuyền tình cập bến hạnh phúc, nhưng "chút nghĩa cũ càng” đâu dễ nguôi, dễ quên? Cả bài ca dao là nỗi buồn, sự nuối tiếc cho mối tình xưa. Đó là bi kịch, là tậm trạng: “Dẫu lìa ngó ýcòn vươngtơ lòng” (Nguyễn Du). Tuy còn nhiều lưu luyến nhưng đã có điểm dừng và khoảng cách hợp lí của anh và em khi đối diện với bi kịch tình yêu.
Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam ” đã xếp bài ca dao này vào mục "Hôn nhân và Gia đình”.Bài ca dao diễn tả thật cảm động tâm trạng của trai gái làng quê xưa trong bi kịch tình yêu: "Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay!… Và bây giờ “em đã có chồng – như chim vào lồng, như cá cắn câu”. Nội dung đích thực của bài ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa ” là giá trị nhân bản sâu sắc. Nó là nỗi buồn trong những mối tình lỡ hẹn trong cuộc đời. Cô gái được nói đến trong bài ca dao thật đáng thương và đáng trọng.
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân – Bài làm 2
Trong kho tàng ca dao dân ca tục ngữ Việt Nam có rất nhiều bài thơ được sáng tác trong quá trình lao động và sản xuất của người dân và đó còn là những câu chuyện tình cảm của những chàng trai và cô gái,có những chuyện tình đẹp và cả những chuyện tình họ không thể đến được với nhau. Trong số đó có bài thơ “trèo lên cây bưởi hái hoa” là một trong những sáng tác suất sắc của người dân lao động. Đây là một bài thơ kể về câu chuyện tình cảm mang tính bi kịch của đôi trai gái không đến được với nhau
Hai câu thơ đầu là những hành động của chàng trai:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân”
Có thể hiểu câu ca dao này theo hai cách đó là có thể hiểu đây là những hành động của chàng trai phải “trèo lên”, “bước xuống” biết bao nhiêu gian khổ khó nhọc để tìm người yêu hoặc có thể coi đây là một cách mở đầu để lấy cảm hứng vì theo ca dao trữ tình thì những câu thơ đầu tiên sẽ dành để lấy cảm hứng ngụ cảnh sinh tình. Trèo lên cây bưởi hái hoa chủ yếu nhằm gợi hứng và có tác dụng đưa đẩy bắt vần. Đọc hai câu thơ này ta không hiểu tại sao chàng trai có những hành động như ”trèo lên cây bưởi” hay “bước xuống vườn cà để làm gì bởi không thể hái nụ tầm xuân ở trong vườn cà được nhưng khi hiểu đúng tâm ý của nhà thơ thì đây chỉ là một hành động trong tâm trí,tâm tưởng của nhà thơ,hay chính là tâm tưởng của chàng trai và những hành động ấy chỉ là những hành động trong tâm trí để chống lại cái cảm giác nhớ nhung và cả sự cô đơn đang bủa vây chàng trai khi không thể tìm thấy cô gái không được ở bên cô gái cho thỏa nỗi nhớ nhung. Trước hết nụ tầm xuân chỉ là một nhánh của một loài hoa mọc hoang dại trong họ hoa hồng. Nó được biết đến là loài hoa có màu trắng nhưng ở đây nụ tầm xuân lại được nhắc đến có màu xanh
“Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc”
Màu xanh ấy phải chăng là màu xanh trong mắt của kẻ si tình hay màu xanh ấy chính là màu xanh của sự tiếc nuối thất vọng trong mắt chàng trai khi mà người con gái mà người đó yêu thương đã đi lấy chồng. Từ ngữ “xuân ” trong danh từ “nụ tầm xuân” dễ gợi cho mọi người những ý nghĩ về tuổi trẻ; những hoài niệm về thuở ầu thơ với những tưởng tượng mơ hồ về hính dáng của loài hoa: hoa tầm xuân hay nụ tầm xuân xanh biếc.. Nhưng thật sự có thứ nụ tầm xuân nở ra xanh biếc hay không? Vì nhiều người cho rằng nụ tầm xuân chỉ là những cánh hoa hồng dại làm gì có màu xanh biếc?Hình ảnh nụ tầm xuân xanh biếc được nhắc đến nhiều trong thơ ca và phải chăng khi mà nhắc đến nụ tầm xuân thì trong con mắt của người sáng tác hay chính là của kẻ si tình.
“Chạm vào một nhánh Tầm Xuân,
Vẫn xanh biếc nụ, vẫn ngần ấy hương. ”
Và kẻ si tình ấy dường như bất lực khi mà người con gái ấy đã đi lây chồng,điều đó được khẳng định trong câu thơ tiếp theo
“ Em đã có chồng anh tiếc lắm thay”
Câu thơ như một lời than thân của kẻ si tình và câu thơ cũng hiện lên nhân cách cao đẹp của người con trai khi mà không biết làm sao mà chỉ biết buồn cho thân phận mình, tiếc cho mình khi không thể cưới được người con gái mình yêu
Tiếp theo là tâm trạng và sự giãi bày của cô gái. Nỗi đau cô gái là nỗi đau của sự trách móc và than thở. Trách nhưng mà vẫn yêu than thở mà vẫn chịu đựng. Cô gái trách chàng trai:
“Ba đồng một mớ trầu cau
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không”
Nào đâu có tốn kém gì chỉ “ba đồng”và ba mẹ em nào có đòi hỏi nhiều nhặn mâm cao cỗ đầy gì mà chỉ có”một mớ trầu cau”. Thế mà mọi thứ đã tan vỡ tất cả. Cô gái trách chàng trai nhưng trong đó ta còn thấy tình cảm giận hờn pha chút trách móc và cả tình cảm âu yếm của cô gái được gửi gắm trong câu thơ. Thì ra chàng trai đem lòng yêu cô gái nhưng mà không dám thổ lộ không trực tiếp đề cập đến chuyện hôn nhân nên cô gái mới phải nhận trầu người khác. Và bây giờ khi mà cô gái đã có chồng đâu được như ngày xưa nữa. Hình ảnh bó buộc của người con giá khi mà đã lấy chồng được nhắc đến nhiều trong ca dao Việt Nam.
“Gái có chồng khi gông đeo cổ”
Ở đây người con gái khi đã lấy chồng cũng được miêu tả tương tự như thế
“Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra”
Chim đã vào lồng cá đã cắn câu thì làm sao có thể thoát ra được như người phụ nữ đã lấy chồng sao có thể được tự do khi còn “không”. Câu thơ cũng nêu ra cuộc sống thực tại của người con gái sau khi đã về nhà chồng. Và như những người phụ nữ trong thời kì đó chỉ biết cam chịu số phận bất lực và không thể chống lại chỉ biết trách than chỉ biết an phận không lối thoát “biết đâu mà gỡ”, “biết thủa nào ra”chứ không hề có ý phản kháng chống lại thực tại phũ phàng và bất công đó. Và khi gặp chàng trai thì nỗi khổ tâm của cô gái càng được tăng lên gấp bội phần. Cuộc sống hôn nhân bó buộc đó không cho phép người con gái được một chút tự do nào. Hai so sánh liên tiếp “Như chi vào lồng,như cá cắn câu” diễn tả tình cảnh bó buộc chật hẹp của cô gái đã có chồng. Hai câu hỏi tu từ xuất hiện thể hiện một bi kịch trong tình yêu:vẫn còn quyến luyến người xưa nhưng không thể vượt ra ngoài khỏi khuôn khổ đạo lí của lễ giáo. Cô gái đã ý thức được nỗi đau trong cảnh sống tù túng trói buộc của hiện tại mà chỉ biết than thở với mình và đối thoại với người yêu. Câu hỏi cuối bài thơ cúng chính là câu hỏi của toàn thể những người phụ nữ trong xã hội phong kiến câu hỏi dường như không có lời giải đáp. Nỗi đau đó làm cho tiếng kêu thảm thiết của cô gái len lỏi vào tận sâu trong lòng người đọc. Từ nỗi đau đó vang lên một lễ giáo phong kiến khắc khe nghiệt ngã. Đằng sau lời tố cáo ấy là niềm khát khao thiết tha cháy bỏng về hôn nhân
Bài thơ nêu lên một vẻ đẹp ngời sáng của người phụ nữ Việt Nam: tuy hạnh phúc riêng tư tan vỡ nhưng lòng vẫn tràn đầy vị tha, ngời sáng đức hy sinh. Bài ca dừng lại ở một lời than thân trách phận là hợp lý. Bởi vì họ còn biết làm gì hơn được khi mà họ là những người rất trọng nhau vì nghĩa: thương nhau nhớ lấy lời nhau. Sức sống dài lâu của bài ca cũng là ở cái lẽ ấy.
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân – Bài làm 3
Trèo lên cắy bưởi hái hoa là một bài ca dao tình yêu độc đáo được lưu truyền rộng rãi từ bao đời nay trong dân gian và có nhiều cách hiểu khác nhau:
Cách hiểu thứ nhất cho rằng đây là lời tâm sự giữa đôi trai gái yêu nhau nhưng không lấy được nhau vì nguyên nhân khách quan nào đó. khỉ biết cô gái đã lấy chồng, chàng trai đau khổ tiếc nuối, chĩ biết gặp người thương để thổ lộ nỗi lòng.
Cách hiểu thứ hai khẳng định đây là lời tỏ tình của chàng trai nhưng éo le thay, cô gái đã có chồng.
Cách hiểu thử ba thiên về ý bài ca dao là lời trách móc, giận hờn của cô gái đối với chàng trai. Vì chàng do dự mà làm cho tình yêu dang dở.
Cơ sở của ba cách hiểu trên dựa vào việc xác định nội dung giao tiếp, tức là lời tâm sự, lời tỏ tình giữa các nhân vật trong bài ca dao.
Bài viết này đề cập đến cách hiểu thứ nhất và thứ hai.
Cách hiểu thứ nhất:
Mở đầu bài ca dao, ta như thấy hiển hiện trước mắt một khu vườn mùa xuân đầy hoa:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc…
Trong khu vườn ấy có sự hài hoà tuyệt đẹp giữa màu trắng của hoa bưởi, màu tím của hoa cà, màu xanh biếc của nụ tầm xuân… Quả là một khung cảnh nên thơ, rất hợp với tình yêu đôi lứa.
Hình ảnh nụ tầm xuân được nhắc lại hai lần liền nhau ở cuối câu 1 và đầu câu 2 như khơi gợi và làm sống dậy trong kí ức chàng trai những kỉ niệm khó quên của buổi ban đầu gặp gỡ giữa mình và cô gái. Tầm xuân không phải chỉ là tên một loài hoa (thuộc họ hoa hồng) mà nó còn là một tín hiệu báo mùa xuân tới tín hiệu của cái đẹp, cái tốt, của hi vọng tràn đầy.
Hồi ức của chàng trai tái hiện những điều thật giản dị cụ thể nhưng cũng hết sức sống động và gợi cảm. Chàng trai không chỉ nhắc đến hoa bưởi, nụ tầm xuân, vườn cà mà còn nhớ như in cả những động tác trèo lên, bước xuống nhí nhảnh, hồn nhiên. Chắc hẳn những cái đó đã gắn chặt với thời niên thiếu và tình yêu của hai người.
Chỉ hai câu ca dao mộc mạc mà gợi lên cả một trời thương nhớ, sắc trắng tinh khôi, hương thơm ngan ngát của hoa bưởi ướp trong làn tóc. Nụ tầm xuân bé nhỏ, xỉnh tươi hé nở như nụ cười tình tứ của em trao cho anh. Nhưng những hình ảnh ấy đều chỉ là ẩn dụ tượng trưng cho những kỉ niệm đẹp đã qua. Chàng trai thất tình hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa, để rồi chỉ biết thốt lên một câu nghẹn ngào chua xót: Em có chổng rồi, anh tiếc lắm thay!
Sau đó là một khoảng lặng, đủ thời gian cho vị chua xót, tiếc nuối thấm vào tim. Cô gái có dịp bày tỏ lòng mình:
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Cô gái nhẹ nhàng trách chàng trai vì do dự mà làm lỡ chuyện tình duyên, đồng thời thể hiện nỗi buổn cho cảnh ngộ của mình.
Lời trách móc dịu dàng và âu yếm: Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?! (Còn không nghĩa là em còn ở với mẹ cha, chưa đi lấy chổng). Nếu không thật lòng yêu thì cồ gái không thể có những lời chân thành như vậy. Đó cũng là điều an ủi duy nhất đối vối chàng trai lúc này.
Chuyện đời vốn đã phức tạp nhưng chuyện tình lại càng phức tạp hơn. Nguyên nhân chàng trai không dám hoặc không thể dạm hỏi cô gái làm vợ đâu chỉ đơn thuần là chuyện đắt rẻ của trầu cau mà có thể do những nguyên nhân khác như: cha mẹ hai bên không ưng thuận hoặc gia cảnh chàng trai quá nghèo chẳng hạn.
Câu: Ba đồng một mớ trầu cay giản dị, tự nhiên nhưng bao hàm nhiều ý nghĩa. Ba đồng (số ít) đối lập với một mớ (số nhiều). Trầu càng rẻ thì cái giá phải trả cho tình duyên đã lỡ làng càng đắt, sự tiếc nuối càng tăng. Do vậy mà chàng trai lại càng xót xa, ân hận! Cô gái trách chàng trai vì sao anh không hỏi cô làm vợ đúng lúc, để đến nỗi giờ đây cả hai phải lâm vào cảnh day dứt, khổ tâm?!
Duyên tình chúng mình dang dở, lỗi ấy tại ai? Tại ai đi nữa thì bây giờ cũng đã muộn màng: Bấy giờ em đã có chồng, Như chim vào lổng như cá cắn câu. Chim vào lồng, cá cắn câu là những thành ngữ quen thuộc hỏi về hoàn cảnh bị ràng buộc, mất tự do của người con gái đã có chồng. Dù muốn hay không thì cũng đành lòng vậy, cầm lòng vậy! Câu ca dao có âm điệu trầm buồn, thổn thức, giống như tiếng thở dài chua xót cho duyên phận lỡ làng. Người con gái có chổng mà thở than như thế thì rõ ràng là không được sống trong tình yêu và hạnh phúc, muốn thoát ra khỏi cuộc hôn nhân bất như ý ấy nhưng vô vọng.
Cô gái giãi bày với bạn tình năm xưa về cảnh ván đã đóng thuyền của mình và cũng hé lộ ra cái ý: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dầu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng (Truyện Kiều). Chỉ cần bấy nhiêu thôi cũng đủ vợi bớt nỗi đau đang chất chứa trong cõi lòng tan nát của chàng trai.
Cách hiểu thứ hai:
Bài ca dao được coi là lời đối đáp tỏ tình của đôi trai gái gặp nhau, biết nhau và cảm nhau muộn màng – vì cô gái đã có chồng.
Chàng trai dẫu biết rằng cô gái đã có chồng và không thể tính chuyện trăm năm được nữa nhưng không nén nổi tình cảm của mình, vẫn thốt lên những lời than thở bộc lộ sự nuối tiếc chân thành. Nếu hiểu như vậy, ta sẽ thấy cách tỏ tình của chàng trai hết sức độc đáo và tỉnh tế. Cô gái đã có chống khiến cho chàng trai rơi vào tình trạng chới với thất vọng ngay khi tình yêu vừa chớm nở.
Chàng trai dùng lối nói bóng gió xa xôi, thậm chí loanh quanh khổ hiểu: Trèo lên cày bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà hải nụ tầm xuân, Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, rồi lại nói thẳng đến mức không thể nào giản dị, tự nhiên hơn: Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay.
Ba câu đầu kể vổ chuyện hái hoa trong vườn. Từ cách kể đến nội dung được tường thuật, miệu tà đều toát lên một điều gì đó không bình thường trong tâm trạng của người kể chuyện. Căn cứ theo đó thì cái nổi lên ừong câu chtìyện không phải là hoa bưởi hay nụ tầm xuân mà chủ yếu là những động tác trèo lên, bước xuống. Cho nên dù chuyện hái hoa là thực hay hư thì nó cũng phản ánh rất rõ cái trạng thái bối rối, đứng ngồi không yên của chàng trai đang muốn bày tỏ tình yêu tha thiết và nỗi tiếc nuối khôn nguôi của mình trước người con gái anh yêu.
Câu đầu nói đến hoa, câu sau nói đến nụ, vừa tạo sự không trùng lặp, vừa phù hợp với vần điệu cụa câu thơ, đổng thời lại tạo được một ý thơ, làm điểm tựa tuyệt vời để chuyển sang câu 3 một cách tự nhiên, hợp lí.
Có thể coi câu: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc là nhịp cầu và bước chuyển tiếp tài tình không thể thiếu giữa hai cách nói, hai hình thức thể hiện tự sự và trữ tình, hư và thực, xa và gần.
Tính từ xanh biếc rất phù hợp với ý thơ và vần thơ. Còn màu xanh biếc có đúng với màu hoa tầm xuân trong thực tế hay không thì có lẽ không cần bình luận. Bởi vì trong ca dao có nhiều câu nói đến những mùi vị, màu sắc và những điều không bao giờ có trong thực tế mà chỉ có trong trí tưởng tượng mà thôi. Ví dụ:
Hóa cúc vàng nở ra hoa cúc tím,
Em đã có chồng, trả yếm cho anh.
Trở lại với bài ca dao trên, trong khi chàng trai thất tình não nuột thốt lên lời than thở: Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay thì cô gái lại tỏ ra bình tĩnh và chủ động hơn. Cô nhẹ nhàng hờn trách sự chậm trễ và thiếu chủ động của chàng trai:
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Cách trả lời thật khôn khéo, vừa có tình vừa có lí, vừa khiêm nhường vừa tự trọng, không thể bắt bẻ vào đâu được. Lời đáp của cô gái quá ngắn ngọn, đủ ý nhưng chưa đủ tình, cho nên chưa thể làm nguôi ngoai sự tiếc nuối trong lòng chàng trai. Đó cũng là lí do khiến cô gái phải tiếp tục phân trần, than thở để an ủi chàng trai, đồng thời khẳng định một lần nữa hoàn cảnh ván đã đỏng thuyền không thể thay đổi được của mình:
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
Hình ảnh chim vào lồng, cả cắn câu ngoài ý nghĩa cho sự tù túng, bế tắc còn có ý nghĩa về một sự việc nào đó đã ổn định như phận gái đã có chồng. Cô gái từ chối lời tỏ tình của chặng trai bằng lời lẽ mềm mỏng, khiêm nhường, có lí có tình, khiến cho chàng trai dẫu có buổn, có tiếc thì cũng phải đành lòng chấp nhận.
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân – Bài làm 4
Câu ca có hai nhân vật trữ tình đốì lập nhau: chàng trai và cô gái. Về nhân vật thứ nhất, có thể có nhiều cách hiểu. Người thì cho đấy là một chàng trai đã từng thầm yêu cô gái, nhưng lại chậm nhận lời, lỡ bước, nay cô đã có chồng và cuộc trò chuyện hiện tại chỉ là cách để anh “bộc lộ sự nuối tiếc, thiết tha và bất lực, để bày tỏ tình yêu và nỗi buồn cùng cô gái”. Người thì cho đây là một chàng trai gặp gỡ và đem lòng yêu cô gái vào lúc đả muộn – cô đã có chồng, do vậy anh “rơi vào tình trạng thất tình ngay khi tình yêu mới nảy nở”. Nếu quả thế thì cái hành vi có vẻ khó hiểu của anh ta (hết “trèo lên cây bưởi” lại “bước xuống vườn cà”, vào vườn cà lại chẳng thể hái hoa cà mà đi tìm nụ tầm xuân, chẳng rõ nụ tầm xuân lúc đó đích thực màu trắng hay hồng, chỉ biết anh nhìn thấy nó như có màu xanh biếc) chỉ là biểu hiện của tâm trạng bối rối, không có chủ định do mình đem lòng yêu một cô gái đã có chồng. Nhưng dù hiểu theo cách nào thì cũng rõ là ở người con trai chỉ có nỗi buồn tiếc, cho dù có xót xa đi nữa, bởi lẽ anh vẫn còn tự do, vẫn còn nhiều cơ hội để yêu trong những mối tình khác. Trọng tâm diễn tả của bài ca nằm ở phần lời của cô gái (ngay số câu thơ đã thể hiện điều đó: sáu câu so với bốn câu của chàng trai). Ở đây không chỉ có nỗi buồn tiếc vì cuộc gặp gỡ muộn mằn này mà, quan trọng hơn, còn có cả nỗi tuyệt vọng: Cô đã có chồng. Điều đó có nghĩa là cô không chỉ tuyệt vọng trong mối tình này của chàng trai này – chàng trai đang bối rối tỏ tình trước mặt cô đây, cô còn, sè còn phải tuyệt vọng trong bất cứ mối tình nào khác. Hình ảnh “lá trầu cay” giá chỉ ba đồng (loại trầu lá đã già thì giá phải thấp) ẩn dụ cho sự tự đánh giá khiêm nhường của cô xuất hiện đúng vào lúc này, trong sự đối sánh trớ trêu giữa tình cảnh “bây giờ” bị lệ thuộc, với quá khứ của “những ngày còn không”, đã nói lên nỗi đau đớn trong tuyệt vọng của nhân vật trữ tình. Nỗi tuyệt vọng đến đau đớn ấy được cô gái diễn tả bằng một câu hỏi: “Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?” chất đầy tâm trạng. Trong cái câu hỏi tưởng như chỉ xoáy vào lòng chàng trai, thật ra còn xoáy (và xoáy mạnh hơn, sâu hơn, đau hơn) vàỡ chính lòng cô gái, chúng ta nhận ra tình cảnh hiện tại của cô. Hình ảnh “chim vào lồng”, “cá cắn câu” được láy đi láy lại theo trật tự đảo ngược cho thấy nỗi đau của cô gái sâu đến mức nào. Hình ảnh Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, Chim vào lồng biết thuở nào ra đã dồn nén cả niềm tiếc nuối thuở còn tự do, cả tâm trạng đau khổ, rối bời, cả thái độ vừa là cam chịu, vừa là biết hi sinh những nhu cầu tình cảm cá nhân cho hạnh phúc, sự êm ấm của gia đình hiện giờ mà chỉ cần một chút vị kỉ của cô cùng đủ làm tan vỡ.
Nhà thơ Trung Hoa Trương Tịch, đời Đường có viết bài “Tiết phụ ngâm” thật hay:
Chàng hay em có chồng rồi
Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành
Vấn vương những cảm mối tình
Em đeo trong áo lót mình màu sen
Nhà em vườn ngự kề bên
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang
Như gương vâng biết lòng chàng
Thờ chồng cương quyết chẳng phụ chàng thề xưa
Trả ngọc chàng, lệ như mưa
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.
(Ngô Tất Tố dịch)
Cứ như lời thơ thì chàng trai mới chỉ biết cô gái sau khi cô đã có chồng. Vậy mà anh ta đã yêu ngay, đã đeo đẳng “triền miên” (chữ trong nguyên tác). Hơn thế anh còn dấn thêm một bước: tặng cô gái đôi hạt ngọc lành. Cô gái Trung Hoa trong thơ Trương Tịch có vẻ vừa ý với cuộc hôn nhân và cuộc sống vợ chồng hiện tại (khác với cỗ gái trong bài ca dao này: ở đây có cái giọng dằn mạnh, day đi day lại như muốn đay nghiên cái tình cảnh hiện tại của mình). Thế nhưng, sự “táo tợn” của anh chàng mới xuất hiện nọ đã có tác động đến cô: cô đã cảm động trước tình cảm của chàng trai lạ, hơn thế, cô còn dao động nữa khi nhận quà tặng đó (luôn đeo vào áo lụa hồng trong mình – hẳn chồng cô không hay biết). Nhưng rồi cô nghĩ lại lời thề sống chết với chồng, và cuối cùng cô đem ngọc trả lại người tặng trong hai hàng nước mắt hận rằng không gặp anh ta lúc chưa lấy chồng. Một thoáng xúc động chân thành, rồi một thoáng dao động, rồi một chút ân hận và một hành động quả quyết chen lần nước mắt (một nét tám lí “rất người” mà nhà thơ đã “bắt chộp” được). Đó là tất cả những gì diễn ra trong tâm tư đầy mâu thuẫn và cả trong hành động của cô gái. Nhưng dẫu sao cô ta đã có dao động trong tình cảm, và sự dao động ấy đã có một biểu hiện thật rõ trong hành động. Cô gái trong bài ca dao này chưa có hành động gì có thể chứng tỏ cô dao động. Cũng có thể chàng trai trong bài ca dao Việt Nam không “táo tợn”, mãnh liệt trong ứng xử với người mình hiện muốn yêu nhưng có gì đảm bảo rằng anh sè không đi xa hơn cái việc chỉ thở than suông nếu như cô gái có tín hiệu đáp nhận, mở đường? Vả lại thở than như thế này cũng đủ rồ mục đích tìm gặp của anh ta quá rồi còn gìỉ Nhưng phần chắc chắn hơn cả ỉà ỉí do này: đây không phải là cuộc gặp gỡ giữa những con người cụ thể – riêng biệt như trong thơ ca bác học, đây là cuộc đối đáp của những “chàng trai muôn thuở” với những “cô gái muôn đời” trong ca dao – dân ca. Trong thế giới thẩm mỹ của mình, văn học dân gian của nhân dân, của cộng đồng – cái phần tiêu biểu cho đạo lí chung của cộng đồng, của nhân dân.
Càng thấy rõ tâm trạng chín chiều, chiều nào cùng dằn vặt, đau khổ của cô gái trong bài ca, ta càng cảm phục nhân cách cao cả, tấm lòng quảng đại, nhân ái của những người phụ nữ bình dân Việt Nam từ xưa đến nay. Ca dao – dân ca là tiếng nói tâm hồn trong sáng nhất của một dân tộc vậy.
Bình giảng bài ca dao Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân – Bài làm 5
Bài ca dao là lời tâm sự của đôi trai gái yêu nhau nhưng không lấy được nhau vì những nguyên nhân khách quan nào đó. Khi biết tin cô gái lấy chồng chàng trai đau khổ nhưng bất lực, chỉ biết gặp người thương để thổ lộ, giãi bày sự luyến tiếc cao đội của mình.
Lời kể của chàng trai hồn nhiên, giản nhị nhưng hết sức cụ thể, sống động và gợi cảm. Chàng trai không chỉ nhắc đến “hoa bưởi”, “nụ tầm xuân” “vườn cà” mà còn nhớ như in cả động tác “trèo lên”, “bước xuống”..tất cả những cái đó đã gắn chặt với thời niên thiếu của đôi trai gái.
Chàng trai chỉ có thể hoặc chỉ dám nghĩ nhiều, nói nhiều về quá khứ, còn hiện tại chỉ thốt lên được mỗi một câu như một lời nghẹn ngào rồi im lặng: “Em có chồng rồi, anh tiếc lắm thay”.
Sự ngừng lại và im lặng của chàng trai khiến cho sự đáp lời của cô gái được bắt đầu một cách tự nhiên, đúng lúc và hợp lí. Cô gái đồng cảm với tình yêu và sự luyến tiếc của chàng trai nhưng chẳng những không an ủi, khuyên giải mà còn phàn nàn, trách móc về sự thiếu chủ động và chậm trễ của chàng:
“Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?”
Sự trách móc thật cần thiết và đáng quý vì nó thể hiện một tình yêu đã không được thể hiện và thực hiện bằng cách khác. “Sao anh chẳng hỏi…?” không có tình yêu thực sự làm sao có thể nói lên những lời trách móc âu yếm như vậy được? Và đó cũng là sự an ủi lớn nhất đối với chàng trai lúc này.
Câu “Ba đồng một mớ trầu cay” thật giản dị, tự nhiên, bao hàm nhiều ý tứ. Nó nói được nhiều điều khó nói. Trầu càng rẻ thì cái giá phải trả cho sự không thực hiện được tình yêu của đôi trai gái càng đắt, sự đáng tiếc càng tăng và do đó chàng trai càng đáng trách. Về phần cô gái, nói như vậy là rất khiêm nhường, tự hạ và do đó càng đáng thương, đáng quý.
Cô gái trả lời khôn khéo, kín kẽ, vừa có tình vừa có lý, vừa khiêm nhường, vừa tự trọng không thể bắt bẻ và chê trách:
“Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thủa nào ra”
Bài ca dao “trèo lên cây bưởi hái hoa” là sự đối đáp tỏ tình của đôi trai gái gặp nhau, biết nhau và cảm nhau muộn mằn khi cô gái đã có chồng. Như chim đã có nơi chốn, cá đã có người câu, như phận em đây là gái đã có chồng.