18/06/2018, 12:41

Bình Dương - Lễ hội Cầu mưa của người Chăm Vân Canh

Bình Định là một tỉnh mà đặc điểm địa lý từ xưa gắn bó rất mật thiết với nền văn hóa lúa nước. Khát vọng của nhân dân Bình Định xưa, chủ yếu là nông dân, về cuộc sống ấm no, mùa màng tươi tốt thường gắn liền với nhu cầu ổn định thời tiết, chinh phục thiên nhiên. Ở một bộ phận dân cư, ...

Bình Định là một tỉnh mà đặc điểm địa lý từ xưa gắn bó rất mật thiết với nền văn hóa lúa nước. Khát vọng của nhân dân Bình Định xưa, chủ yếu là nông dân, về cuộc sống ấm no, mùa màng tươi tốt thường gắn liền với nhu cầu ổn định thời tiết, chinh phục thiên nhiên.

Ở một bộ phận dân cư, thường là các dân tộc ít người, khả năng khám phá và chinh phục thiên nhiên còn hạn chế đồng bào đã nhìn các hiện tượng thiên nhiên qua ánh sáng huyền bí, với quan niệm mọi biến chuyển của vũ trụ đều do Phật trời, thần linh hoặc ma quỷ điều khiển. Con người muốn đạt được sở nguyện thì phải cầu nguyện, cúng khấn để được thần linh trợ giúp. Lễ cầu mưa (oai lơ cau chăhơzan) của dân tộc Chăm H'roi ở Vân Canh, một thể thức cổ xưa, có lẽ cũng xuất phát từ quan niệm đó.

Dân tộc Chăm H'roi sống ở Vân Canh, một huyện miền núi của Bình Định nằm ở chân dãy núi Trường Sơn, nguồn nước khan hiếm mưa ít, nắng nhiều, dẫn đến tâm lý sợ nắng hạn kéo dài sẽ mất mùa, gây sự đói kém. Do vậy, cứ vào đầu tháng hai âm lịch hàng năm (sau Tết Nguyên đán), dù trời hạn hay trời mưa, đồng bào đều tổ chức lễ hội. Tùy theo thời tiết mà có tên gọi cho từng dịp lễ hội - trời hạn thì gọi là lễ cầu mưa, còn có mưa mà hành lễ thì gọi là lễ mừng mưa.

Để cầu mưa (hay mừng mưa), đồng bào có thể làm lễ riêng, trên rẫy của mình. Hoặc nếu trời nắng quá lâu, cả làng (Plây) phải làm chung một lễ, cả làng cùng chuẩn bị và cùng đóng góp lễ vật để cúng.

Lễ từng nhà:

Do từng nhà tự lo liệu lễ vật để cúng tại rẫy của mình. Khi hạt giống đã trỉa xuống, chủ nhà làm lễ cầu mưa cho hạt giống ở rẫy mình nẩy mầm. Ngày giờ do chủ nhà tự chọn sau khi đã xuống giống.

Chủ nhà thu dọn cây, vun một đống đất ở rẫy, đường kính khoảng 50cm, cao 30cm. Ở giữa là một cây tre rừng, phần gốc được chôn dưới đất, phần ngọn được chẻ làm tư tỏa ra bốn hướng đông tây nam bắc đón nước mưa. Trên phần ngọn tre chẻ tư đó, chủ nhà gác dàn đặt lễ vật gồm một con gà trống (con vật biểu hiện cho sự bền bỉ, dẻo dai trước cuộc sống), một bình rượu nhỏ, một vòng sáp ong để đốt và một đấu thóc (có nơi dùng gạo). Bên cạnh gốc tre là cái cuốc nhỏ buộc chung vào gốc tre (thể hiện ý niệm cầu xin nước để lao động sản xuất. Có nước thì cái cuốc mới làm việc có kết quả còn nếu không có nước thì cái cuốc cũng nằm im bên gốc tre cằn cỗi mà thôi).

Bên cạnh đó, người ta đem từ 7 đến 9 ống nứa nhỏ bằng ngón tay cắm xung quanh một gốc cây rừng đã cháy trên rẫy rồi rót nước đầy vào các ống với ngụ ý nước đã về rẫy, nước làm mát đất.

Nội dung lời khấn cầu của chủ nhà:

"Ơ Giàng! cầu Giàng cho hạt mưa xuống. Hạt mưa nhỏ nhỏ như hạt lúa, hạt mưa lớn lớn như hạt bắp. Đổ nước xuống, đổ mưa xuống, để cái suối không còn khô, để người và mọi loài sống lại. Cầu nước để người có nước trồng trỉa. Chỉ có Giàng là lớn nhất trần gian. Chỉ có Giàng cho nước, người mới có nước trồng cây lúa. Ơ Giàng!".

Phụ nữ cầm những bó nan vuốt vào không khí tạo nên âm thanh của gió. Đàn ông gõ trống tạo nên âm thanh của sấm. Chủ nhà thành kính rót rượu mời thần Mây, thần Gió và thần Sấm về làm mưa.

Đặc biệt trong quá trình làm lễ cầu mưa không được vui chơi, ca hát để biểu lộ lòng thành kính thần linh. Chỉ khi nào có mưa mới được mừng vui ca múa.

Sau khi làm lễ xong, tất cả rượu thịt được phân chia cho người và cho thần, tất cả chè chén tại rẫy. Đồ chia cho thần để lại. Tất cả ra về chờ Mưa.

Lễ chung cho cả làng (Plây).

Khi hạn hán kéo dài, cả Plây mới cầu chung một lễ, do già làng (người có uy tín nhất trong làng, trong tộc họ) đứng ra điều hành.

Trước tiên, làng sẽ cử người dựng một đài dâng lễ vật - lễ vật trên đài cũng gồm một con gà trống, một bình rượu, một vòng sáp ong để đốt và một bát gạo. Đài dâng lễ vật được đặt tại sân nhà của già làng hoặc bến nước của làng.

Tất cả các nghi trượng cúng tế và bày biện cũng như từng nhà tổ chức, có điều quy mô lớn hơn, lễ vật bày biện bên dưới cũng nhiều hơn.

Công việc chuẩn bị xong bắt đầu lễ cúng.

Chiếu cói mới (chưa dùng) được trải ra phía dưới đài và án, ở giữa chiếu có đặt một chiếc đĩa dựng hai đồng xu để gieo quẻ âm dương, xung quanh chiếu là các ché rượu cần.

Số người làm lễ cúng phải là số lẻ do làng chọn, từ 3-5 người (hoặc từ 7-9 người) kể cả lễ vật cũng phải là số lẻ để khi cầu Giàng cho thêm chẵn là đủ. Trong các lễ thức, đồng bào bao giờ cũng chỉ cầu đủ là vừa bụng - không tham nhiều, sợ lấy nhiều, lần sau xin trời không cho…

Trong số người tham gia cúng, dân làng chọn ra một người có uy tín đưa lên ngồi trên đài tượng trưng cho người của Giàng (trời). Bên dưới già làng khấn cúng:

"Ơi Giàng! chỉ có Giàng là lớn nhất trần gian.

Giàng ơi! Chỉ có Giàng mới cho người có nước để trồng cây lúa.Ơi Giàng! Giàng hãy mau mưa xuống - mưa hạt nhỏ cây bắp trổ, mưa hạt lớn lúa nẩy cây.

Giàng hãy mau mưa xuống Giàng ơi!

Cho măng mía, măng tre mọc nhiều

Cho lúa bắp trên rẫy tươi tốtCho dân làng được dự Hội mừng mưa - Ôi Giàng!

Cầu Giàng - Giàng hãy mau mưa xuống!

Cho đụm lúa nếp dân làng ăn đến tháng 5

Cho đụm lúa to dân làng ăn hết tháng 10

Giàng hãy mưa xuống cho lũ làng tay múc nước thành hoa, tay múc nước thành bông.
Giàng mưa - cho con chim Kơrơtau không ngừng rỉa cánh, để con ếch trong hang kêu "ộp ộp",
con cá dưới suối quẩy "bun bun"

Xin Giàng nhìn xem dân Plây…

Đều đủ mặt chào Giàng

Xin Giàng cho nước trên trời rơi xuống

Để cây lúa bén rễ

Để lúa dưới đất trồi lên…

Hỡi ông Núi - bà Non

Hỡi ông Coông - bà Ch'ơ

Hãy nghe Giàng đổ nước…"

Già làng gieo quẻ, nếu cả hai mặt của đồng xu đều cùng âm hoặc cùng dương, nghĩa là Giàng chưa nghe, chưa chịu cho mưa… còn nếu một sấp, một ngửa, tức là Giàng đã chịu cho dân làng mưa (Thể hiện đúng luật âm dương của trời đất).

Lúc này "người của Giàng" ở trên đài cúng hất rượu theo 4 hướng đông tây nam bắc - đồng bào dân tộc không có khái niệm 8 hướng như dân tộc Kinh. Đến đây họ coi như trời đã cho mưa đáp ứng lời cầu nguyện của dân làng và hô to: "Nào hỡi dân làng hãy nổi cồng chiêng chào đón mưa trời cho!".

Kơtoong cùng dàn chiêng trổi lên giai điệu A Tonh Ch'yong e pla (Chào trời - chào khách). Theo chiều ngược kim đồng hồ, trai, gái trong làng nhịp nhàng nhảy múa hú gọi. Tư thế của họ tượng trưng cho gió thổi, mây bay, sấm nổ đón những giọt mưa từ "người của Giàng" ngồi trên đài đổ xuống… Người làm lễ cúng cùng già làng chia lễ vật cho thần linh. Mọi người ăn uống, nhảy múa. "Người của Giàng" vẩy nước xuống cho ướt mọi người và rải những hạt lúa xuống… Dân làng tin rằng trời chấp thuận cho mưa, vui vẻ vào hội.

Lễ hội cầu mưa được kéo dài hay không còn tùy thuộc vào lượng rượu mà dân làng góp để có cuộc vui chơi ca hát thâu đêm suốt sáng. Trong dịp Kơtoong-chiêng, dân làng uống rượu và múa xoang Ch'yong với niềm tin trời sẽ mưa thuận gió hòa cho dân Plây có nước sản xuất.

Sau cách mạng tháng 8/1945 đến nay, bà con không còn làm lễ "cầu mưa" riêng nữa mà gắn chung trong "Hội đâm trâu mừng lúa mới" để mừng mưa thuận gió hòa cho ngô lúa tươi tốt. Do đó mô hình trang trí của lễ hội này có những thay đổi như sau:

Đài và án được dựng từ 4 gốc cây Pay Ch'panh (người Kinh gọi là cây gạo). Phần trên là án, phần dưới là đài, được các nghệ nhân trong làng trang trí những tua, những họa tiết cách điệu hoa văn theo mô típ Chăm có tên gọi Pơrưng; bên cạnh đó là cây Nêu vươn cao, tạo thành đôi cánh chim (loài chim biểu hiện cho sự yên bình của đồng bào Chăm H'roi). Đó là một cách thể hiện thông điệp cầu trời cho sự yên bình của đồng bào.

Nghi thức lễ có phần tạ ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa. Phần Hội vui hơn tưng bừng hơn vì vụ mùa đạt kết quả…

Có thể nói, lễ hội cầu mưa là một dạng thức văn hóa phi vật thể khá đặc sắc của người Chăm H'roi Vân Canh, Bình Định.

0