Biển Aral
(tiếng Kazakh: Арал Теңізі (Aral Tengizi), tiếng Uzbek: Orol dengizi, tiếng Nga: Аральскοе мοре) là một vùng bồn địa trũng gồm một vài hồ nước mặn nằm ở Trung Á mà trước kia liên kết thành một biển kín (không thông thủy với các biển hay đại ...
(tiếng Kazakh: Арал Теңізі (Aral Tengizi), tiếng Uzbek: Orol dengizi, tiếng Nga: Аральскοе мοре) là một vùng bồn địa trũng gồm một vài hồ nước mặn nằm ở Trung Á mà trước kia liên kết thành một biển kín (không thông thủy với các biển hay đại dương khác); phía bắc là Kazakhstan và phía nam là khu tự trị Karakalpakstan của Uzbekistan. Aral có thể gọi là hồ vì nó không thông với biển khác, tuy vậy hồ duy trì được nồng độ muối khá cao, tương đương với nồng độ của đại dương. Đến tháng 8 năm 2009, biển Aral hầu hết đã bị bốc hơi.
Từ thập niên 1960, biển Aral bắt đầu thu hẹp bởi các sông tiếp nước cho nó là Amu Darya và Syr Darya bị chuyển hướng cho mục đích tưới tiêu. Ngày nay, Aral bị ô nhiễm nặng nề, chủ yếu là hậu quả các vụ thử vũ khí, các dự án công nghiệp và phân bón hóa học dư thừa từ trước và sau khi Liên Xô sụp đổ.
Vấn đề sinh thái chủ yếu của biển Aral là nguồn nước tiếp cho nó bị sử dụng vào mục đích tưới tiêu. Từ 40 năm nay, biển Aral không ngừng co rút, từ một biển kín lớn thứ 4 thế giới, nó sẽ bốc hơi hoàn toàn trong vòng 10 năm. Điều này gây ra thảm họa sinh thái và kinh tế cho khu vực và chính môi trường biển.
Từ năm 1918, chính quyền Liên Xô đã quyết định sẽ lấy nước từ hai con sông Amu Darya ở phía nam và Syr Darya ở phía đông bắc phục vụ tưới tiêu sa mạc trong vùng, biến vùng đất khô cằn quanh biển Aral thành những đồng lúa, dưa, ngũ cốc, và bông. Ngày nay Uzbekistan là một trong các quốc gia xuất khẩu bông hàng đầu thế giới.
Công việc đào kênh bắt đầu ở quy mô lớn những năm 1930. Nhiều kênh được đào đắp với chất lượng kém, gây thất thoát và bốc hơi nước; ước tính, có từ 30% dến 70% nước lãng phí từ kênh Qaraqum, kênh lớn nhất vùng Trung Á. Ngày nay, mới có 12% chiều dài kênh tưới tiêu ở Uzbekistan có khả năng ngăn nước thất thoát.
Cho đến năm 1960, một lượng nước từ 20 đến 50 tỷ mét khối nước hàng năm được dẫn đến các cánh đồng thay vì chảy vào biển Aral. Mất một lượng nước bổ sung lớn, biển Aral bắt đầu co rút từ thập niên 1960. Từ 1961 đến 1970, mực nước biến Aral hạ thấp trung bình 20 cm mỗi năm. Đến những năm 1970, tốc độ tụt là 50-60 cm hàng năm, những năm 1980 là 80-90 cm. Việc sử dụng nước cho sản xuất, dù vậy, vẫn được ưu tiên, từ 1960 đến 1980, sản lượng bông tăng gần gấp đôi nhờ lượng nước đưa vào đồng tăng hai lần.
Nhà nước Xô viết đã nhận biết thực tế trên từ rất sớm, ít ra là trước năm 1968 và chấp nhận việc biến mất của biển Aral như là một việc không tránh khỏi để đánh đổi lấy thành công trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp.
hiện này đã mất 60% diện tích mặt nước và 80% lượng nước. Năm 1960, nó là hồ lớn thứ tư thế giới với khoảng 68 nghìn km² và 1.100 tỷ mét khối nước (1.100 km khối). Đến năm 1998, hồ chỉ còn đứng thứ 8 với diện tích 28.687 km². Trong cùng khoảng thời gian trên, nồng độ muối của hồ tăng từ 10g/lít lên 45g/lít. Năm 2004, diện tích hồ còn 17.160 km vuông, tương đương 25% diện tích ban đầu và vẫn thu hẹp.
Việc phát hiện nguồn nước ngầm đổ vào hồ gần đây cũng không bù đắp nổi lượng nước cần thiết để ngăn chặn sự mất nước. Nguồn bổ sung 4 tỷ m³ hàng năm này lớn hơn ước đoán trước đây. Đó là dòng nước từ các dãy núi Pamir và Thiên Sơn đổ vào qua các lớp địa tầng có cấu trúc đứt gãy ở đáy hồ.
Năm 1987, biển Aral bị phân cách thành hai bởi mực nước tụt xuống. Một kênh đào được hình thành để nối hai phần hồ nhưng đến năm 1999, kênh này đã không còn tác dụng khi nước tiếp tục hạ thấp. Năm 2003, phần hồ phía nam (Aral Nam) tiếp tục bị phân chia thành phần phía đông và phía tây. Cũng từ năm này, lượng nước mất mát khỏi phần hồ phía bắc (Aral Bắc) đã phần nào bị hạn chế.
Công việc khôi phục biển được thực hiện ở phần Aral Bắc. Các công trình tưới tiêu trên sông Syr Darya đã được cải thiện nhằm tăng lượng nước đổ vào biển. Tháng 10 năm 2003, chính phủ Kazakhstan thông báo kế hoạch xây con đập bê tông (đập Kokaral) ngăn cách hai nửa biển Aral (Bắc và Nam). Kể từ khi con đập hoàn thành tháng 08 năm 2005, mực nước ở Aral Bắc đã dâng lên, nồng độ muối giảm xuống. Tới năm 2006, mực nước biển Aral tăng lên đáng kể, sớm hơn cả dự kiến. Như trong một báo cáo, “chiếc đập đã nhanh chóng nâng mực nước ở biển Aral nhỏ (Aral Bắc) lên 125 feet từ mức 98 feet và có khả năng lên 138 feet”. Nguồn cá đã trở lại, nhiều nhà quan sát, từng cho rằng Aral Bắc là một thảm họa môi trường, đã thật ngạc nhiên bởi những báo cáo năm 2006 về công nghiệp đánh bắt đã phục hồi nhờ đủ nước và những mẻ cá được xuất tới tận Ukraine. Sự khôi phục mang lại những đám mây tạo mưa vốn từ lâu vắng bóng cùng những thay đổi khí hậu nhỏ, dấy lên hi vọng cho khu vực nông nghiệp vốn bị cát lấn và hi vọng mở rộng trở lại của biển. trước đây cách thành phố từng là cảng Aralsk chừng 100 km về phía nam, giờ chỉ còn cách 25 km.
Phần biển Nam Aral - phần lớn nằm ở Uzbekistan vốn nghèo hơn, bị bỏ mặc cho số phận, song dự án ở phần Aral Bắc đã mang lại đôi chút hi vọng. Với việc có con đập ở Aral Bắc, nước tháo từ đây định kỳ bổ sung cho phần phía nam. Các cuộc thảo luận đang diễn ra về khả năng nối lại con kênh giữa phần bắc và nam. Aral Nam vẫn đang co ngót, để lại những vùng đất nhiễm muối, gây ra các trận bão cát, mùa đông trở nên lạnh hơn và mùa hè nóng hơn. Những nỗ lực hạn chế ảnh hưởng này là phủ xanh những vùng biển vừa rút đi.
Cho đến mùa hè 2003, phần biển Aral Nam mất đi nhanh hơn dự đoán. Ở những vùng nước sâu nhất của biển này, lớp nước dưới đáy mặn hơn lớp nước mặt và không hòa tan với nhau nữa. Vì thế chỉ phần nước mặt bị đốt nóng dưới ánh mặt trời và nó bay hơi nhanh hơn tính toán. Theo những số liệu gần đây, phần phía tây của biển Aral Nam sẽ biến mất trong vòng 15 năm, phần phía đông sẽ tiếp tục tồn tại nhưng cũng không chắc về số phận của nó nữa.
Hệ sinh thái của biển Aral và những châu thổ sông đổ nước vào nó gần như bị hủy diệt, không chỉ bởi nồng độ muối rất cao. Biển rút đi để lại những vùng đất mênh mông bị phủ bởi muối và hóa chất độc, những thứ này rồi bị gió đưa đi quanh vùng dưới dạng bụi. Đất đai quanh biển Aral đã bị ô nhiễm nặng nề và người dân sống trong vùng thiếu nước sạch, gánh chịu các vấn đề sức khỏe như một số dạng ung thư và các bệnh phổi. Mùa màng bị tàn phá bởi muối xâm nhập vào đất. Thị trấn Moynaq ở Uzbekistan đã từng có cầu cảng và công nghiệp đánh bắt cá tấp nập sử dụng 60.000 lao động, nay nằm cách biển nhiều dặm đường. Các thuyền đánh bắt cá nằm rải rác trên bờ, có nhiều cái đã ở đây 20 năm. Chỉ còn một công ty đánh bắt sống sót nhờ nguồn cá từ biển Baltic cách đó hàng ngàn km.
Thảm họa của biển Aral đã được đưa lên phim ảnh.
Nhiều giải pháp khác nhau đối phó với các vấn đề khác nhau của biển Aral được đề xuất trong các năm qua:
cải thiện chất lượng các kênh tưới tiêu
xây dựng các nhà máy khử muối
thu phí nông dân sử dụng nước lấy từ sông
thay thế các giống bông cần ít nước hơn[1].
làm chảy băng tuyết trên dãy núi Pamir và đưa nước về biển Aral – giải pháp ngắn hạn với cái giá của hậu quả dài hạn
hạn chế sử dụng hóa chất trong nghề trồng bông
xây dựng các đập nước để đưa nước về biển Aral
dẫn nước từ sông Volga, Ob, Irtysh về. Giải pháp này khôi phục biển Aral chỉ trong 20-30 năm với chi phí 30-50 tỷ đô la Mỹ[2].
Bơm và khử mặn nước biển từ biển Caspi vào biển Aral thông qa hệ thống đường ống[3]
Tháng 01 năm 1994, các nước Kazakhstan, Uzbekistan, Turkmenistan, Tajikistan và Kyrgyzstan đã ký một hiệp ước cam kết dành 1% ngân sách để khôi phục biển Aral. Đến 2006, các dự án khôi phục của Ngân hàng thế giới dành cho Aral Bắc đã mang lại mực nước dâng hơn dự kiến, mang lại cả niềm tin mong manh mà trước đó chỉ là bức tranh tuyệt vọng.
Năm 1948, phòng thí nghiệm vũ khí sinh học tối mật của Liên Xô đã được xây dựng trên hòn đảo giữa biển Aral (ngày nay là vùng tranh chấp giữa Kazakhstan và Uzbekistan). Nguồn gốc, chức năng, và tình trạng của phòng thí nghiệm này vẫn chưa được tiết lộ. Cơ sở này bị bỏ năm 1992 sau sự chia cắt quân đội Liên Xô. Các nhà khảo sát (bao gồm cả người Mỹ) đã chứng minh rằng đây là cơ sở sản xuất, thử nghiệm và chôn vùi vũ khí sinh học. Năm 2002, qua một dự án tổ chức bởi Hoa Kỳ có sự hỗ trợ của Uzbekistan, 10 điểm chôn hóa chất bệnh than đã được khử độc. Theo nguồn của Trung tâm khoa học Kazakhstan về kiểm dịch và lây nhiễm động vật, toàn bộ các điểm chôn vi khuẩn bệnh than đã được khử độc.