Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Du số 3 - 10 Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Du (lớp 9) hay nhất
Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” đã từng viết: Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng Nhân tình nhắm mắt chưa xong Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như? Vâng, có lẽ, chắc hẳn khi đọc những vần thơ ấy của nhà thơ Tố Hữu trong lòng mỗi người ...
Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” đã từng viết:
Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương
Dẫu lìa ngỏ ý còn vương tơ lòng
Nhân tình nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?
Vâng, có lẽ, chắc hẳn khi đọc những vần thơ ấy của nhà thơ Tố Hữu trong lòng mỗi người chúng ta lại hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu, người có nhiều đóng góp to lớn và xuất sắc cho nền văn học trên nhiều phương diện về nội dung và nghệ thuật.
Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, ông sinh năm 1765, mất năm 1820. Nguyễn Du sinh ra, lớn lên, thời ấu thơ và niên thiếu sống tại Thăng Long, trong một gia đình phong kiến quyền quý. Quê nội của Nguyễn Du ở xã Nghi Xuân, huyện Tiền Điền, tỉnh Hà Tĩnh – quê hương của những làn điệu dân ca nhẹ nhàng, du dương. Mẹ của Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần – người vợ thứ ba của cha ông, quê ở Bắc Ninh, là người có tài đàn hát. Thêm vào đó, vợ của Nguyễn Du quê ở Quỳnh Côi, trấn Nam Sơn (nay thuộc tỉnh Thái Bình) – nơi ông đã sống trong quãng thời gian “mười năm gió bụi”. Như vậy, Nguyễn Du đã sống ở nhiều vùng quê và đó cũng chính là cơ hội để ông được tiếp xúc, khám phá nhiều vùng văn hóa khác nhau. Có thể nói, điều đó chính là tiền đề, cơ sở thuận lợi tạo nên sự tổng hợp nghệ thuật trong tâm hồn và sáng tác của ông. Đặc biệt, Nguyễn Du sinh ra trong dòng họ nhiều đời làm quan ở vùng Tiên Điền, Hà Tĩnh và như dân gian ta từ xưa đã có câu
Bao giờ Ngàn Hồng hết cây
Sông Lam hết nước nước họ này hết quan.
(Ca dao)
Quả đúng như câu ca, trong gia đình của Nguyễn Du có rất nhiều người làm quan. Thân phụ của Nguyễn Du đã có lúc giữ đến chức Tể tướng ở trong triều đình nhà Lê – Trịnh. Nguyễn Khản – anh trai cùng cha khác mẹ với ông từng làm tới chức Tham tụng, một thời nổi tiếng phong lưu và là người rất thân với chúa Trịnh Sâm. Chính truyền thống khoa cử trong gia đình đã tạo điều kiện cho Nguyễn Du sớm được học hành, dùi mài kinh sử và tiếp thu những tư tưởng của Nho giáo. Đồng thời, gia đình Nguyễn Du cũng là một gia đình có truyền thống yêu chuộng văn học, thích hát xướng và sành thơ văn bằng chữ Nôm. Như vậy, những yếu tố về quê hương và gia đình chính là cái nôi, là điều kiện thuận lợi để Nguyễn Du có cơ hội được tiếp xúc với văn học nghệ thuật từ thuở nhỏ, khám phá các nền văn hóa khác nhau và dùi mài kinh sử, để từ đó có một vốn sống, vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc.
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong bối cảnh thời đại có nhiều biến động. Đó là khoảng thời gian đất nước bị chia cắt, khủng hoảng xã hội và loạn lạc ở khắp nơi, đời sống nhân dân cơ cực. Đồng thời, trong khoảng thời gian phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra khắp nơi, tiêu biểu trong số đó chính là khởi nghĩa Tây Sơn. Chính những điều đó đã có ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng và ngòi bút hiện thực trong những sáng tác của ông.
Có thể nói, Nguyễn Du đã sống một cuộc đời với đầy những bi kịch, trải qua nhiều gian truân, vất vả. Lên mười tuổi, Nguyễn Du đã mồ côi cha và sau đó ba năm thì mẹ ông cũng qua đời, từ đó, Nguyễn Du đến sống với người anh cùng cha khác mẹ với ông là Nguyễn Khản. Thời gian sống cùng Nguyễn Khản đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Nguyễn Du dùi mài kinh sử, am hiểu về cuộc sống phong lưu, xa hoa của tầng lớp quý tộc phong kiến và về sau những điều này đã để lại ấn tượng trong sáng tác của ông. Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường và được nhận một chức quan nhỏ. Nhưng cuộc sống êm đềm của ông kéo dài không được bao lâu, năm 1789, nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du phải lánh về sống ở quê vợ và bắt đầu cuộc sống “mười năm gió bụi” với biết bao khổ cực và tủi nhục. Sau quãng thời gian sống chật vật, khó khăn ở các vùng quê khác nhau, đến năm 1802, Nguyễn Du miễn cưỡng chấp nhận ra làm quan dưới triều Nguyễn và từng giữ nhiều chức quan khác nhau như Tri huyện, Tri phủ, Cai Bạ Quảng Bình. Ngoài ra, ông còn được cử đi sư ở Trung Quốc và đến năm 1820, ông một lần nữa được cử đi sứ sang Trung Quốc nhưng chưa kịp đi thì mắc bệnh và qua đời.
Suốt cả cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc với nhiều thể loại khác nhau, được sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Nhắc đến sáng tác bằng chữ Hán của Nguyễn Du, hiện nay, các nhà nghiên cứu văn học đã sưu tầm được 249 bài thơ thuộc ba tập thơ được sáng tác vào các thời kì khác nhau. Đó là “Thanh Hiên thi tập” với 78 bài thơ chủ yếu được sáng tác trong quãng thời gian trước khi Nguyễn Du ra làm quan vào thới nhà Nguyễn. Là “Nam trung tạp ngâm” gồm 40 bài viết thời gian ông làm quan ở các tỉnh ở phía nam của Hà Tĩnh – quê hương của ông. Và cuối cùng đó là tập “Bắc hành tạp lục” với 131 bài thơ, được ông sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Quốc. Bên cạnh những sáng tác bằng chữ Hán, sáng tác bằng chữ Nôm của Nguyễn Du cũng có giá trị to lớn. Sáng tác bằng chữ Nôm của Nguyễn Du được biết đến là Văn chiêu hồn và Truyện Kiều, song có lẽ, nổi tiếng hơn cả đó chính là Truyện Kiều. Truyện Kiều đã được Nguyễn Du sáng tạo dựa trên cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện – một tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc.
Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác của mình, mặc dù sáng tác của ông rất đa dạng song vẫn thể hiện một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật hết sức nhất quán. Trước hết, thơ văn của Nguyễn Du luôn phản ánh chân thực và sâu sắc hiện thực xã hội với đầy rẫy những bất công cũng nỗi thống khổ, cơ cực của nhân dân. Đồng thời, những trang viết của Nguyễn Du luôn chan chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và có lẽ ông là người đầu tiên trong nền văn học trung đại tập trung ngòi bút của mình để cất lên tiếng nói về thân phận người phụ nữ xinh đẹp và tài năng. Thêm vào đó, nghệ thuật thơ văn của Nguyễn Du cũng rất độc đáo. Những vần thơ chữ Hán của ông đạt đến độ tài hoa, uyên bác của về thể loại và cách sử dụng hình ảnh ngôn từ. Đặc biệt, sáng tác bằng chữ Nôm của ông đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ và góp phần trau dồi, làm giàu ngôn ngữ dân tộc và sử dụng thể thơ truyền thống trong sáng tác thơ văn.
Tóm lại, Nguyễn Du là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc, ông xứng đáng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, ông không chỉ là ngòi bút phê phán hiện thực sâu sắc mà còn là nhà thơ, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn với tấm lòng yêu thương sâu sắc.