Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" số 10 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Thuế máu" của Nguyễn Ái Quốc
Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp trong thời gian Người ở Pháp và được xuất bản lần đầu tiên tại Pari vào năm 1925. Tác phẩm đã tố cáo và kết án những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp, đồng thời phản ánh cuộc sống tủi nhục, ...
Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp trong thời gian Người ở Pháp và được xuất bản lần đầu tiên tại Pari vào năm 1925. Tác phẩm đã tố cáo và kết án những tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp, đồng thời phản ánh cuộc sống tủi nhục, đau thương của những người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới.
Đoạn trích Thuế máu được rút trong chương I của “Bản án chế độ thực dân Pháp. Các tiêu đề trong phần này lần lượt là Chiến tranh và người bản xứ; Chế độ lính tình nguyện; Kết quả của sự hi sinh. Phần đầu trong văn bản chính là mục Chiến tranh và người bản xứ. Phần này nói về tình cảnh của những người An-nam-mít và những người nô lệ da đen phải làm bia đỡ đạn cho bọn thực dân Pháp và bị đối xử một cách vô cùng tàn nhẫn.
Trước khi có chiến tranh thì những thanh niên bản xứ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên An-nam-mít bẩn thỉu chỉ biết làm cu li kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị da tráng. Nhưng khi chiến tranh vừa bùng nổ, bọn thực dân đã sử dụng mọi thủ đoạn để lừa bịp và biến họ thành con yêu, bạn hiền của các quan cai trị. Không những thế họ còn được phong cho danh hiệu chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do. Nguyễn Ái Quốc đã rất khéo léo sử dụngthủ pháp tương phản để vạch trần giọng điệu bịp bợp của bọn thực dân cai trị. Thực chất là bọn thực dân bắt họ làm bia đỡ đạn, một cách đánh thuế máu vô cùng xảo quyệt. Các từ ngữ như chiến tranh vui tươi, lập tức họ biến thành, đùng một cái, được phong cho cái danh hiệu tối cao đã làm cho giọng văn châm biếm trở nên sâu cay, mỉa mai.
Nguyễn Ái Quốc nêu ra những mất mát đau thương của những thanh niên bản xứ bị bắt đi làm bia đỡ đạn. Họ phải xa lìa vợ con, phải rời bỏ quê hương, mảnh ruộng, đàn cừu. Họ đi phơi thây trên các chiến trường châu Âu. Biết bao cảnh chết chóc đau thương đã xảy ra. Họ chết vì thủy lôi: được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của loài thủy quái; bị bỏ xác tại các vùng hoang vu tận Ban-căng, để lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ. Xương máu của họ, cái chết của họ thật vô nghĩa, hoặc anh dũng đưa tay cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ, trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ, hoặc lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy, lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống đốc. Tác giả đã kết hợp miêu tả với bình luận để mỉa mai, châm biếm cái thuế máu của bọn thực dân.
Những người lính thợ không bị bỏ xác trên các chiến trường thì lại bị đầu độc, phải lao động khổ sai, làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm để nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối. Những kẻ khôn khổ ấy đã khạc ra từng miếng phổi chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy! Đó là một sự cống hiến rùng rợn của người dân bản xứ đối với chiến tranh.
Những con sốdưới ngòi bút của Nguyễn Ái Quốc thật sự có ý nghĩa. Bảy mươi vạn người ra đi thì có đến 8 vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Sốphận đau thương và những mất mát của người bản xứ đã được thể hiện một cách chi tiết qua các sốliệu Nguyễn Ái Quốc đưa ra.
Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng thành công các thủ pháp nghệ thuật như tương phản đối lập, kết hợp miêu tả với bình luận, sử dụng sốliệu... đặc biệt là giọng văn chua cay, châm biếm, mỉa mai để vạch trần và lên án những tội ác của bọn thực dân.Trong suốt 80 năm thông trị nước ta, thực dân Pháp đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí nhằm bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ. Khi đọc đoạn trích Thuế máu chúng ta được biết thêm một loại thuế có một không hai mà bọn thực dân đặt lên đầu nhân dân ta.