Bài văn phân tích tác phẩm "Lẽ ghét thương" số 9 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Lẽ ghét thương" của Nguyễn Đình Chiểu
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc, và có thể thấy rằng ở Đình Chiểu không chỉ thành công với văn tế mà ông dường như lại còn còn thành công với thể loại truyện thơ. Thật dễ có thể nhận thấy rằng Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng với “Lục Vân Tiên” đặc biệt hơn là ...
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc, và có thể thấy rằng ở Đình Chiểu không chỉ thành công với văn tế mà ông dường như lại còn còn thành công với thể loại truyện thơ. Thật dễ có thể nhận thấy rằng Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng với “Lục Vân Tiên” đặc biệt hơn là trong đoạn trích “Lẽ ghét thương” như cũng đã thể hiện được những lẽ ghét thương thật đáng ngưỡng mộ ở ông lão quán trọ.
“Lẽ ghét thương” là một đoạn trích trích từ truyện lục vân tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Đoạn trích dường như cũng đã nói lên sự ghét và sự thương của ông bán quán nước. Và có thể thấy được chính hoàn cảnh để ông lão bày tỏ lẽ ghét thương của mình là khi ông đã bắt gặp Lục Vân Tiên cùng với Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm như đang thi thố với nhau. Và cho đến khi Trịnh Hâm và Bùi Kiệm thua thì lại đổi cho bên Lục Vân Tiên là làm điều gian lận.
Có lẽ chính vì thế ông quán thấy bất bình và không chịu được nữa nên ông đã lên tiếng thể hiện sự ghét thương của bản thân mình. Và có thể nói ở đây ta cũng như đã thấy tác giả dường như cũng đã nhờ ông quán kia mà có thể nói lên cái sự ghét thương của bản thân mình. Ông quán kia dường như không phải là người không hiểu biết sự đời mà thật ra ông cũng đã từng học và cũng đã đọc rất nhiều nhưng vì chán ghét cảnh quan trường thi cử xô bồ cho nên ông quyết định về quê để làm một ông già bán nước mà thôi.
Điều đó như cũng đã thể hiện tâm tưởng của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và của cả những bậc nho sĩ nói chung. Ở họ dường như đã đều chán ghét cảnh quan trường thi cử với những bất bình, và đó cũng chính là cảnh tranh chấp mà trở về làm những người nông dân bình thường và như để có một cuộc sống tuy thanh đạm nhưng rất đỗi bình yên.
Chỉ vẻn vẹn với bốn câu thơ đầu, ông quán lên tiếng khi thấy những bất bình của cuộc thi giữa bốn người sĩ tử kia. Cũng chính vì lòng dạ ngay thẳng vốn đã rời bỏ chốn thi cử từ lâu nhưng nay khi mà thấy được những sự ngang ngược của Trịnh Hâm, Bùi Kiệm nên ông mới cất lời nói về những ý nghĩ của mình.
“Quán rằng: “Kinh sử đã từng”,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”
Dường như cho đến đây chúng ta thấy ông quán bắt đầu thổ lộ những điều mà mình ấp ủ bấy lâu. Hiện tại ông chính là một ông quán nước thật đấy thế nhưng trước đây khi mà ông còn trẻ thì ông cũng là một người dùi mài kinh sử miệt mài có kiến thức và dấn thân vào những cuộc thi. Thế những chính vì cuộc thi họa xướng của bốn người kia khiến cho ông Quán cũng như đã phải bật cười mà khuyên Vân Tiên rằng hãy nên biết chọn bạn mà chơi. Và cũng bởi vậy nên ông quán đã thể hiện điều đó trong bốn câu thơ đầu.
Có lẽ rằng cũng chính bởi thấy ông quán đã dùi mài kinh sử, và ông cũng là một bậc tiền bối đi trước ắt hẳn là có nhiều kinh nghiệm. Và ở Lục Vân Tiên lại như luôn luôn thể hiện sự ham học hỏi và tôn trọng của người đi trước của mình qua cách hỏi về lẽ ghét thương ở trên đời này:
“Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Nhân vật Lục Vân Tiên như cũng đã thể hiện được những sự khiêm tốn của mình cũng là muốn nghe ông quán truyền đạt những kinh nghiệm của bản thân để học hỏi. Và ngay lúc đó thì Lục Vân Tiên nói chưa hiểu lắm về thương hay ghét cho nên muốn ông quán có thể chỉ dạy cho mình.
Và cũng như không biết rằng lẽ ghét thương ở đời thể hiện như thế nào. Khi ấy thì dường như ông quán sẵn sàng nhận lời mà cũng như đã thể hiện những lẽ ghét thương của bản thân mình. Trước tiên ông quán đã tài tình và khôn khéo kho ông đã nói về ghét trước, bởi cái sự ghét luôn khiến cho con người ta cảm thấy khó chịu chứ không yêu mến như sự thương:
“Quán rằng: “Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm. ”
Ta như thấy được ông quán thẳng thắn thể hiện quan điểm của bản thân mình. Ông thật là ghét những truyện tầm phơ tầm phào ở trong cuộc sống thường trực, chuyện tầm phào là những truyện vu vơ hão huyền không có ý nghĩa gì. Và chắc có lẽ ở một câu thơ có đến ba từ “ghét” điệp đi điệp lại thể hiện sự căm ghét của ông quán với những truyện vô nghĩa trên đời.
Và dường như không những thế những từ ghét ấy như lại được kết hợp với những tính từ như “cay”, “đắng” và rồi sau đó lại là ghét vào tận tâm càng thể hiện sự ghét của ông lão. Có thể nói rằng đối với một con người ngay thẳng và như rất biết thời thế như ông thì có thể nói những việc làm tầm phào kia lại dường như đã khiến cho ông cảm thấy ghét vào tận tâm can của mình. Thế rồi ngay cả ông cũng đã nêu lên những việc tầm phào ấy trong những câu thơ tiếp theo:
“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.”
Người đọc như lại có thể thấy hai câu thơ một cứ là biểu hiện của những việc làm tầm phào và câu thứ hai đó chính là kết quả hay còn là việc làm tầm phào ấy. Ông quán hay như là sự hiện thân của chính là tác giả Nguyễn Đình Chiểu như đang kể tội những hôn quân làm cho cuộc sống nhân dân phải điêu đứng đau khổ. Và có thể tóm lại rằng ông quán kia yêu thương nhân dân và ghét những gì, và đó còn là những ai làm cho những người nông dân phải khổ. Và ông như ghét tất cả những gì làm hại cho cuộc sống của nhân dân.
Nếu như ta nói hết phần ghét cay, ghét đắng với giọng điệu quả thực như lại rất căm thù uất hận ấy như cũng sẽ dẫn đến lẽ thương trên đời nhịp thơ trùng lại trìu mến hơn. Và quả thực nếu như những câu thơ ghét kia hùng hồn bao nhiêu thì đến câu thơ thương lại nhẹ nhàng, nhớ thương người xưa răn dạy bấy nhiêu:
“Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông
Thương thầy Nhan Tử dở dang.
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời biểu, tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”.
Và đây cũng chính là những cái tên của những vị danh tướng ngày xưa, hàng loạt những cái tên mà dường như đã được ông quán nhắc đến với sự tôn trọng nhớ thương. Đó là những cái tên từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường - Tống, có lẽ như tất cả đều là những cái tên nổi tiếng trong lịch sử.
Ông thật thương cho họ bởi vì họ chính là những người tài giỏi trung quân thế nhưng ở họ dường như lại có cuộc sống vô cùng dở dang. Và cũng có lẽ chính từ những lẽ ghét thương ấy đến hai câu thơ kết bài ông quán như tổng kết lại cái lẽ ghét thương của mình:
“Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”
Như vậy, thông qua đây nhà thơ cũng như đã xây dựng thành công nhân vật ông quán để có thể thể hiện quan điểm của mình. Hay là nói cách khác chính quan điểm lẽ ghét thương của ông quán gián tiếp thể hiện quan điểm và lẽ ghét thương của tác giả Nguyễn Đình Chiểu vậy.