Bài văn phân tích tác phẩm "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" số 7 - 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" của Phạm Đình Hổ
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở tinh Hải Dương. Thời đại ông sống là thời thời kì xã hội phong kiến đang trên đà mục ruỗng, thối nát. Vì vậy, qua các tác phẩm của mình, ông thường kí thác tâm sự của nho sĩ sinh bất phùng thời. Trong số ...
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839, sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi khoa bảng ở tinh Hải Dương. Thời đại ông sống là thời thời kì xã hội phong kiến đang trên đà mục ruỗng, thối nát. Vì vậy, qua các tác phẩm của mình, ông thường kí thác tâm sự của nho sĩ sinh bất phùng thời. Trong số các tác phẩm đặc sắc, không thể không nhắc đến “Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh” trích “Vũ trung tùy bút”. Tùy bút này ghi lại cảnh sống xa hoa, vô độ của Chúa Trịnh và bọn quan lại, đồng thời tác phẩm cũng phơi bày nỗi thống khổ của nhân dân.
Lúc mới đăng cơ, Trịnh Sâm tỏ ra là bậc minh chúa với trí thông minh thiên phú, quyết đoán, bản lĩnh hơn người, nhưng khi đã yên vị, y lại đắm chìm trong tửu sắc, ăn chơi sa đọa. Mỗi tháng đều đặn ba đến bốn lần, nhà Chúa xa giá tới cung Thụy Liên bên Hồ Tây. Binh lính, quan lại có mặt đông đủ, khung cảnh buôn bán diễn ra vô cùng tấp nập, nhộn nhịp.
Niềm vui với nhà chúa như vậy có lẽ chưa thỏa, nên chúa liên tục cho xây dựng đền đài, lăng tẩm ở các nơi để được mặc sức vui chơi, hưởng lạc. Chính việc xây dựng những hành cung xa hoa, lộng lẫy tốn kém làm nhân dân lâm vào tình cảnh khốn khổ vô cùng. Lòng dân đã oán hận ngút trời, còn Chúa Trịnh vẫn chìm đắm trong tửu sắc, đàn hát, u mê.
Là bá chủ thiên hạ nên Chúa Trịnh cũng muốn mọi tuyệt phẩm trong nhân gian đều là của Chúa. Nhân cơ hội này, bọn cận thần cũng tranh thủ vừa lấy lòng Chúa, vừa vơ vét vào túi riêng. Nào là trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chúng đều mặc sức thu lấy, không thiếu một thứ gì.
Có khi để di dời cả cây đa to, cành lá um tùm, rễ dài đến vài trượng từ bên bắc chở qua song đem về, cả một cơ binh được huy động. Cả những khu vườn lộng lẫy, chất đầy đồ vật, cây cối, chim muông quý hiếm trong thiên hạ, nhưng âm thanh phát ra từ đó lại gây cảm giác ghê rợn, gai người. Đó như điềm gở, báo hiệu nguy cơ diệt vong của triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, mà không quan tâm đến đời sống nhân dân.
Người xưa nói: “Ông chủ nào thì đầy tớ nấy”, bọn hoạn quan dưới quyền cũng ỷ thế cậy quyền mà tác oai, tác quái, nhũng nhiễu nhân dân. Chúng thăm dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay thì lập tức biến hai chữ “phụng thủ”. Đêm khuya thanh vắng, chúng cho tay chân vào nhà người ta ăn cắp đồ rồi lại vu vạ cho họ tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Nạn nhân thì quá sợ hãi, phải bỏ của ra kêu van chí chết. Thủ đoạn nham hiểm, độc ác đó của bọn quan lại đã đẩy người dân vào tình cảnh thảm thương.
Đoạn cuối, tác giả không chỉ kể chuyện nhà người, mà còn kể chuyện nhà mình, sống trong xã hội suy tàn lúc bấy giờ, nỗi bất hạnh không còn là của riêng nhà nào: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng lúc nở hoa, trắng xóa thơm lừng, trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quá trông rất đẹp”. Dù tiếc đứt ruột cũng phải chặt đi để tránh tai bay vạ gió ập đến nhà.
Cách kể chuyện như vậy đã kéo người kể chuyện thành một trong những nhân vật chứng kiến, tham gia câu chuyện. Do đó, câu chuyện được kể tăng thêm tính thuyết phục, lôi cuốn người đọc. Cảm xúc cũng vì thế mà trở nên chân thực, sâu sắc hơn.
Với cảm quan hiện thực và tấm lòng nhân đạo, Phạm Đình Hổ đã ghi lại chân thực cảnh sống xa hoa, ăn chơi sa đọa, thương thiên nghịch lí của Trịnh Sâm và bọn quan lại dưới quyền, dồn đẩy nhân dân vào chân tường cuộc sống. Chúng đâu biết rằng, “Đẩy thuyền đi là dân, mà lật thuyền cũng là dân”, được lòng dân thì được cả thiên hạ, mà mất lòng dân thì mất cả vương triều.
Chi tiết miêu tả tỉ mỉ, chân thực, sinh động, lời bình ngắn gọn, cảm xúc được ẩn sâu kín trong câu chữ, tác phẩm ghi chép những chuyện người thật việc thật này có lẽ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa lịch sử, mà còn có giá trị văn học cao. Bởi thế chăng, mà sau này, ở thế kỉ XX, ta bắt gặp những tài năng về phóng sự, tùy bút có lẽ đã được mạch ngầm này nuôi dưỡng, đó là những Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng…