Bài văn phân tích nhân vật Hộ số 7 - 10 Bài văn phân tích nhân vật Hộ trong tác phẩm "Đời thừa" của Nam Ca
Có thể nói được rằng trong thời kỳ văn học 1930-1945, không ai vượt được Nam Cao nhất là trong việc mô tả tấn bi kịch của người trí thức, nhất là người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Và riêng nếu như ta chỉ xét riêng một truyện ngắn đặc sắc “’Đời thừa” (1943), ta dường như cũng có ...
Có thể nói được rằng trong thời kỳ văn học 1930-1945, không ai vượt được Nam Cao nhất là trong việc mô tả tấn bi kịch của người trí thức, nhất là người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Và riêng nếu như ta chỉ xét riêng một truyện ngắn đặc sắc “’Đời thừa” (1943), ta dường như cũng có thể nhận ra tấn bi kịch ấy với bao nghịch cảnh, bế tắc, xót xa rồi.
Văn sĩ Hộ- nhân vật chính của Đời thừa, chính là một trong những nhà văn có tài và đầy tâm huyết. Ta dường như có thể thấy được người đọc có thể nhận ra ở Hộ nhiều nét tự truyện của chính Nam Cao. Văn sĩ Hộ cũng như đã từng viết được những tác phẩm có giá trị, và muốn được bạn bè cùng giới viết văn và người đọc yêu mến, cổ vũ. Nhưng, quả thật là Hộ không muốn dừng lại ở bất kỳ chặng nào của thành công, ở anh như không bao giờ có chuyện mãn nguyện với những gì đã được viết ra. Ở nhân vật Hộ luôn luôn khao khát vươn tới cái tận thiện, và cái vẻ đẹp như phải tận mĩ của nghệ thuật. Hộ dường như cũng thật là thèm khát nghĩ đến một tác phẩm “nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”.
Hộ như cũng đã dốc lòng phụng sự nghệ thuật. Với Hộ có thể thấy được nghệ thuật là tất cả, nghệ thuật là trên hết, rõ ràng là niềm đam mê nghệ thuật cao nhất, loại trừ hết mọi đam mê khác. Người đọc như biết được rằng chính công việc hàng ngày của Hộ chỉ còn vẻ vẹn có hai thứ đọc và viết mà thôi, nếu như không viết thì đọc, không đọc thì viết. Vì hơn ai hết Hộ hiểu đọc để càng hoàn thiện thêm cây bút của mình, đọc để thưởng thức cái đẹp chân chính, đó cũng chính là những cái đẹp cao thượng của văn chương nghệ thuật. Còn viết để sáng tạo, để thể hiện những khát vọng đẹp đẽ của mình về văn chương thế sự. Chính những sự đọc và viết, Hộ dường như cũng đã quên tất cả cuộc đời nhỏ nhen, quên tất cả những khó khăn, nghèo túng của một nhà văn nghèo. Ta như thấy được rằng chính trong cách nhìn của Hộ, cả cái nghèo túng ấy cũng là một nét đẹp, và cái đẹp của một nhà văn, một con người quên mình vì văn chương, nghệ thuật như văn sĩ Hộ.
Hộ và cả nhà văn Nam Cao chính là một nhà văn “nghệ thuật vị nghệ thuật” không? Câu trả lời sẽ là không. Bởi với Hộ, đối với Hộ thì nghề văn thật là một nghề cao đẹp trong đời, là một nghề có ý nghĩa phục vụ con người, phụng sự nhân loại ở mức độ cao. Chính văn học có tác dụng làm cho con người trở nên phong phú hơn, cao thượng hơn, nhân ái và độ lượng hơn, gần gũi nhau hơn. Văn sĩ Hộ lại như lại đang tự đòi hỏi cao và không bao giờ tự bằng lòng về mình, có lẽ chính bởi vì cái đẹp, đó cũng chính là sự tuyệt đối của nghệ thuật, đồng thời cũng vì một ý thức trách nhiệm cao đối với người đọc, đặc biệt hơn nữa đó chính là đối với nhân loại mà Hộ phụng sự.
Và có lẽ đối với Hộ, dường như cũng đã đưa ra cho người đọc một tác phẩm mờ nhạt, tác phẩm như thật nông cạn, hơn nữa, lại viết cẩu thả, là một việc làm thiếu lương tâm, tệ hơn nữa. Có thể đó là một sự lừa gạt. Không một ai không muốn chỉ làm “một người thợ khéo tay” trong nghề văn. Hộ muốn “khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”. Cuộc đời đầy sắc màu này mà sống với những hoài bão như của Hộ, luôn luôn để phấn đấu để vươn tới, để hoàn thiện, luôn luôn để có thể nhìn thấy mối mâu thuẫn giữa điều đã làm được và điều đáng phải làm được. Hơn thế nữa là luôn cố gắng để xoá bỏ sự mâu thuẫn khá gay gắt giữa điều mình đang có và cái mình phải có, phải vươn tới. Và ta như thấy được chỉ nguyên chừng ấy thôi đã đủ để cho người ta không yên, đã đủ để người ta phải sầu khổ, và cũng rất nhiều khi cảm thấy đổ vỡ. Nhưng không chỉ có thế, tấn bi kịch của Hộ còn lớn hơn nhiều lần đó.
Hộ còn được xây dựng lên là một người tôn thờ cái đẹp, cái cao thượng trong văn chương, Hộ dường như cũng đã có những muốn sống đẹp trong tư cách một con người. Và chính trong nhân vật Hộ đã có một hành động đẹp, tuyệt đẹp của lòng nhân ái. Hộ từ sâu trong lòng cũng đã cứu danh dự của Từ, cứu sống đời Từ, cưu mang Từ đúng vào lúc Từ cần đến những điều ấy nhất. Và chính trong tư cách một người chồng, một người cha, Hộ dường như lại đã muốn Từ và các con mình hạnh phúc, ít nhất là không khổ, không đau khổ. Nhưng đối với Hộ đã làm được những gì? Từ dường như càng ngày càng khổ, như lại héo hon càng gầy gò, xanh xao vì thiếu thốn, đói khát. Ta như thấy được các đoạn miêu tả các con Hộ thì càng nheo nhóc, tật bệnh. Nguyên việc ta cchỉ nhìn thấy cái cảnh ấy cũng đã đau khổ rồi, đầy bi kịch rồi, bi kịch của một người muốn làm điều tốt, và đều như mong muốn hạnh phúc cho người khác mà không sao làm được.
Tuy nhiên, người đọc nếu như nghiền ngẫm sâu hơn một chút ta lại thấy được sự bi kịch chính của Hộ là ở chỗ khi mà mối mâu thuẫn giữa khát vọng của một người nghệ sĩ với ước muốn làm một con người tốt đẹp. Và nếu như để có tiền có thể nuôi vợ nuôi con thì văn sĩ Hộ phải viết vội những tác phẩm mà ngay khi biết ra xong, chính Hộ đã thấy chán. Hộ dường những cũng đã phải chống lại ngay chính mình, Hộ cũng như đã vi phạm ngay những tiêu chuẩn mà Hộ đặt ra cho mình trong tư cách nhà nghệ sĩ. Hộ dường như viết văn để kiếm tiền, viết vội, viết cẩu thả, đó là điều không thể tha thứ, không thể bào chữa được, đối với Hộ. Nhưng để có thể mà làm một người nghệ sĩ chân chính thì chắc chắn Hộ sẽ phải có hành động đó chính là bỏ mặc vợ con, thậm chí tàn nhẫn với vợ con. Nhưng như thế, với Hộ, như đang lại là hèn nhát, là vô lương tâm chắc chắn rằng điều đó cũng không thể tha thứ được.
Văn sĩ Hộ dường như cũng đã chẳng từng nêu như một tiêu chuẩn sống là gì đó chính là "Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”. Lúc này đây thì nhân vật Hộ dường như cũng không thể chọn lấy một trong hai con đường đó chính là những sự hi sinh nghệ thuật để làm một người chồng, người cha tốt được. Hoặc Hộ cũng không thể vì cái đẹp tối thượng của nghệ thuật mà hi sinh phần con người, làm một con người nhẫn tâm, vô trách nhiệm. Ta như thấy được cả hai thứ trách nhiệm ở Hộ đều được ý thức rất cao. Hộ dường như cũng không có quyền, và chắc chắn là cũng không thể chọn lấy và hi sinh bất kỳ phần nào.
Tấn bi kịch thường xuyên dai dẳng của Hộ chính là ở đó. Có thể thấy được trên cả hai phương diện trách nhiệm, Hộ đều cảm thấy mình làm được ở mức tồi nhất. Và vì thế mà ở Hộ luôn luôn lên án mình, Hộ dường như cũng đã tự xỉ vả mình. Qủa thật rằng chính tấn bi kịch ấy trở thành một chứng u uất trầm kha nơi Hộ, nó cũng đã có những lúc đã bộc phát lên. Nhưng dường như trong lúc ấy, những lúc say rượu, Hộ như đã chọn lấy một, đã muốn tìm một giải phóng cực đoan nhất cho mình. Nhưng rồi tỉnh cơn say, thì lúc này đây tình thế vẫn vậy, cái vòng lẩn quẩn vẫn vậy không đổi khác xem chừng lại nặng nề, bi đát hơn.
Tác phẩm “Đời thừa” dường như cũng đã kết thúc bằng một lần tỉnh rượu của Hộ sau một cơn say mặc dù đã có bao nhiêu lầ như vậy. Văn sĩ Hộ khóc trước cái dáng nằm ngủ khổ sở của Từ, và chính trong vòng tay gầy yếu của Từ. Thì cũng đã khiến cho cả Từ cũng khóc. Hộ khóc lú do là vì hối hận đã tệ bạc, đã tỏ ra thô bạo với Từ. Nhưng có lẽ rằng nguyên nhân chính, hẳn Hộ đã khóc cho nỗi đau của mình, Hộ cũng đã khóc vì cái bế tắc của đời mình, khóc sự tan vỡ thảm thương của hoài bão to tát và đẹp nhất của mình. Rồi cả Từ nữa, nhân vật Từ cũng khóc vì cô đã mơ hồ nhận ra điều cay nghiệt đó.
“Đời thừa” được viết lên liệu đó có phải là tấn bi kịch muôn đời của người trí thức? Người ta dường như có thể vừa sống với hoài bão lớn lao hiến dâng cho sự nghiệp, đồng thời cũng như vừa sống với phần con người tốt đẹp của mình không? Được lắm chứ như nguyên do chính là sự bế tắc hạn hẹp trong cuộc sống.
Nhà văn bậc thầy miêu tả tâm lý nhân vật- Nam cao, với tác phẩm “Đời thừa” dường như cũng đã để lại cho ta một bức tranh hiện thực, đồng thời cũng để lại cho ta một thông điệp. Qủa thật rằng người ta có thể sống mà không cảm thấy đời mình là đời thừa, nhưng đồng thời lại cũng đã không cảm thấy sống là sống mòn, là một cách chết mòn. Muốn thế, thì chính bản thân chúng ta cũng phải giật tung hết những cái lẩn quẩn, những bế tắc của đời sống đi để có thể thay đổi cuộc sống.