Bài văn phân tích hình tượng vua Quang Trung trong "Hoàng Lê nhất thống chí" số 10 - 12 Bài văn phân tích hình tượng vua Quang Trung trong "Hoàng Lê nhất thống chí" lớp 9 hay nhất
“Hoàng Lê nhất thống chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hấn được viết theo thể chương hồi do nhiều tác giả trong Ngô Gia Văn Phái (Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du…) sáng tác. Đây là một bức tranh sâu rộng vừa phản ánh được sự thối nát, suy tàn của triều đình phong kiến Lê – Trịnh, ...
“Hoàng Lê nhất thống chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hấn được viết theo thể chương hồi do nhiều tác giả trong Ngô Gia Văn Phái (Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du…) sáng tác. Đây là một bức tranh sâu rộng vừa phản ánh được sự thối nát, suy tàn của triều đình phong kiến Lê – Trịnh, vừa phản ánh được sự phát triển của phong trào Tây Sơn. Trong hồi thứ 14 của tác phẩm, hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung Nguyễn Huệ được khắc họa thật cao đẹp với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người.
Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”.Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, dốc xuất đại binh ra Bắc…
Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế để chính danh vị, lấy niên hiệu là Quang Trung. Việc lên ngôi đã được tính kỹ với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người’. Việc làm ấy được dân ủng hộ. Quang Trung sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta. Qua lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ “đất nào sao ấy”, “người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân tạ: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bốc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi ”.
Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập của cha ông ta từ ngàn xưa như: Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành… Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người Phù Lê “thay lòng đổi dạ” với mình nên ông đã có lời dụ với quân lính chí tình, vừa nghiêm khắc: “các người đều là những ngưòi có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lốn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.
Sáng suốt trong việc xét đoán bề tôi. Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rõ: Ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng”. Nhưng không hiểu lòng họ, sức mình ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở và Lân không bi trừng phạt mà còn được ngợi khen. Đối vói Ngô Thì Nhâm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sĩ mưu túc trí. Việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.
Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói vói Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 tới ta hoà bình. Đối vối địch, thường thì biết là thắng việc binh đao không thể dứt ngay được vì xỉ nhục của nước lớn còn đó. Nếu “10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”.
Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tiết ở Thăng Long. Trong thực tế, hành trình ấy đã vượt mức 2 ngày. Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề cũng là do tài tổ chức của người cầm quân tài ba bậc nhất cổ kim.
Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông làm tổng chỉ huy chiến dịch thực sự, trực tiếp xông pha trận mạc, cùng tướng sĩ quyết chiến với kẻ thù. Dưới sự lãnh đao tài tình của vị tổng chì huy này, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù, tiêu diệt kẻ thù đến tận gốc rễ. Trận đánh quyết liệt đến nỗi khiến quân Thanh khiếp đảm hồn vía. Chúng cứ ngỡ như quân dưới đất lên, tướng trên trời xuống. Khí thế đội quân làm cho kẻ thù khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc hoa lẫm liệt: trong cảnh “khói tỏ mù trời, cách gang tấc không thấy gì” nổi bật hình ảnh nhà vua “ cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
Hình ảnh hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung được khắc hoạ khá đậm nét với tính cách manh mẽ, trí tuệ, sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. Trí tuệ và tầm vóc của vua Quang Trung – Nguyễn Huệ không gì sánh bằng. Từ cổ chí kim chưa từng có người nào được như thế.
Với ý thức tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc sâu sắc, những người trí thức, các tác giả Ngô Gia Văn Phái là những cựu thần chịu ơn sâu, nghĩa năng của nhà Lê, nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê yếu hèn đã cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn, làm nổi bật hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung, niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Bởi thế họ đã viết thực và hay đến như vậy về người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Hồi thứ 14 trích Hoàng Lê nhất thống chí xứng đáng là một bản anh hùng ca ngợi ca người anh hùng áo vải dựng cờ đánh giặc cứu nước và sức mạnh của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm lược, bảo vệ độc lập nước nhà.