Bài văn phân tích hình ảnh bếp lửa số 4 - 10 Bài văn phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt
Lúc lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể đó là kỉ niệm với người mẹ thân thương, có người cha tôn kính, có thể là người bà trân trọng. Còn Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của nhà thơ là hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Hiện diện kèm với bà là hình ảnh ...
Lúc lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể đó là kỉ niệm với người mẹ thân thương, có người cha tôn kính, có thể là người bà trân trọng. Còn Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của nhà thơ là hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Hiện diện kèm với bà là hình ảnh bếp lửa. Nó đã khơi nguồn cảm xúc để Bằng Việt nhớ về bà và viết về bà qua bài thơ đậm chất trữ tình: Bếp lửa.
Mở màn bài thơ là hình ảnh bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Ba tiếng “một bếp lửa" là một điệp khúc, gợi lại 1 hình ảnh thân thuộc trong mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam. Hình ảnh “bếp lửa” thật ấm áp giữa cái lạnh giá của sương sớm. Đó không chỉ là chờn vờn của ngọn lửa mới được nhóm lên trong sương mà còn là loại chờn vờn trong tâm tưởng của người cháu nơi phương xa. Hình ảnh bếp lửa thân quen có biết bao tình cảm ấp iu nồng đượm. Nó đã gợi lại sự coi ngó, lo âu, chu đáo, chở che cho đứa cháu nhỏ của người bà. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu lại nhớ thương khi nghĩ về bà:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. Đọng lại trong câu thơ là chữ “thương”, trình bày tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà khó nhọc, thầm lặng trong quang cảnh “biết mấy nắng mưa”, làm sao tính được với bao nhiêu mưa nắng khổ đau đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về các gian khổ thời còn bé!
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Nạn đói năm 1945 đã làm cho bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Năm đấy, Bằng Việt mới lên bốn tuổi. Sống trong cảnh ngộ ấy thì khiến cho sao hạn chế được các khốn cùng. Trong khoảng ghép “mòn mỏi” được chia tách ra, đan xen sở hữu từ đói đã gợi dòng cảm giác nạn đói đấy vừa kéo dài và còn làm cho khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất đối có người cháu là khói bếp, luồng khói được hun trong khoảng bếp lửa thân thuộc:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Giờ đây nghĩ lại, cháu như đang sống lại các năm tháng ấy. Câu thơ đấy sức truyền cảm đặc trưng làm người đọc ko khỏi với cảm giác cay cay nơi sống mũi. Tuổi thơ đấy lớn lên trong cảnh hoang tàn của chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá. Cuộc sống cạnh tranh song 2 bà cháu cũng được an ủi bởi tình cảm hàng xóm láng giềng. Bởi trong hoàn cảnh chung của phổ thông gia đình Việt Nam lúc đó, các người lớn phải tham dự kháng chiến, ở nhà chỉ còn cụ già và cháu nhỏ: Mẹ cùng cha công tác bận ko về.
Và vì vậy chỉ với 2 bà cháu mồ côi mồ cút bên nhau. Bà nói chuyện ở Huế cho cháu nghé, bà dạy cháu học, chỉ cháu khiến. Bao công tác bà đều lo hết vì cha mẹ bận công tác ko về. Bà là chỗ dựa cho cháu, và đứa cháu ngoan ngoãn là nguồn vui sống của bà. Các kỉ niệm của tuổi thơ đều gắn liền sở hữu hình ảnh “bếp lửa”, bởi “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói", đã sớm phải toan lo. “Cháu cùng bà nhóm lửa” trong tám năm ròng. Tám năm đấy nó cũng chẳng phải là dài lắm nhưng sao cứ kéo dài lê thê trong lòng cháu. Cho nên, nhớ về tuổi thơ, người cháu lại “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt”. Cảm giác đó chân thật và xúc động. Chiếc làn khói bếp của ngày xưa đấy như bay tới tận bay giờ làm cay nơi sống mũi. Ngày xưa cay vì khói còn giờ đây sống mũi lại cay lúc nhớ về tuổi thơ và cũng vì nhớ thương tới người bà.
Người cháu mường tưởng bà rồi mường tượng quê hương, đến loài chim tu hú. “Tu hú” được đề cập lại bốn lần, tiếng kêu của nó trên đồng xa như sự cảm thông cho cuộc sống đói nghèo trong chiến tranh của 2 bà cháu. Và trong lời nói của bà mang cả “tiếng tu hú sao mà thiết tha thế”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dậy lên 1 mong mỏi:
Tu hú ơi! Chẳng tới ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Kỉ niệm của tuổi thơ đã được đánh thức, ở đó mang hình ảnh người bà tảo tần sớm hôm và mang hình ảnh cả quê hương. Từ các hồi ức về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về thế cuộc của bà. Bà đã hi sinh cả đời mình để lực lượng bếp lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, tỏa sáng trong gia đình:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Bà là người đàn bà tảo tần, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi ban mai ko chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhìn thấy bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”. Ngọn lửa được đội ngũ lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà thầm lặng chịu chứa, hi sinh để: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố”. Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà quen thuộc sở hữu nỗi khó nhọc, gian khó của người bà.
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Trong bài thơ với tới mười lần người bà hiện diện cộng bếp lửa mang vẻ đẹp tần tảo, hi sinh, yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, nhà thơ đã đi tới hình ảnh “ngọn lửa”:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt mang các “niềm vui trăm ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn mang bao điều mới mẻ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không giới hạn hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm cho ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước trục đường đi tới.
Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa sở hữu ý nghĩa thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm can trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm cho say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như 1 thuyết giáo thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hánh trình dài rộng của thế cục. Bằng Việt đã biểu hiện lòng yêu thương, hàm ơn bà sâu sắc. Lòng hàm ân chính là biểu đạt cụ thể của ái tình quê hương, quốc gia khi đã đi xa.