31/03/2021, 15:30

Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" số 8 - 10 Bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài

Mỗi người yêu văn Tô Hoài từ trong tiềm thức của mình, nhắc đến Tô Hoài trước cách mạng tháng Tám, ta không thể không nhắc đến tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí. Sau cách mạng, ông lại nổi lên với tập Truyện Tây Bắc với 3 truyện tiêu biểu đó là Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu Mường và Mường ...

Mỗi người yêu văn Tô Hoài từ trong tiềm thức của mình, nhắc đến Tô Hoài trước cách mạng tháng Tám, ta không thể không nhắc đến tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí. Sau cách mạng, ông lại nổi lên với tập Truyện Tây Bắc với 3 truyện tiêu biểu đó là Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu Mường và Mường Giơn giải phóng. Trong đó, Vợ chồng A Phủ là linh hồn của cả tập truyện.

Linh hồn của tác phẩm là nhân vật Mị – biểu tượng của người nông dân sau Cách mạng tháng Tám, được Tô Hoài xây dựng vô cùng chân thực và sống động. Toàn bộ bức chân dung ấy được Tô Hoài vẽ lên bằng lòng nhân ái của một nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy. Đúng như nhận xét của Nga Chekhov đã từng nói: “1 người nghệ sĩ chân chính phải là 1 nhà nhân đạo từ trong cốt tủy.” Tô Hoài, chắc chắn, là một nhà văn như thế.

Đối với một tác phẩm văn học chân chính, giá trị nhân đạo chính là giá trị nhân văn của tác phẩm. Nói như Nam Cao, đó phải là một cái gì đó vừa đau đớn vừa phần khởi. Nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn. Còn theo như Thạch Lam: Văn chương phải là một thứ khí giới thanh cao và và đắc lực; nó làm trong sạch lòng người, làm thay đổi một cái thế giới tàn ác và giả tạo.


Để có được những áng văn như vậy, nhà văn phải đứng trong lao khổ mở lòng mình ra đón lấy tiếng vang động của cuộc đời hay nói như Tố Hữu: Nhà thơ phải là những con ong hút nhụy từ những bông hoa của cuộc sống. Không có sự cần mẫn của con ong, nhụy hoa không thể trở thành mật ngọt.


Điều này được thể hiện rõ trong Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, 1 tác phẩm chứa chan tình nhân văn, nhân đạo. Vợ chồng A Phủ là tập truyện hay nhất trong tập truyện Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Truyện đã diễn tả quá trình giác ngộ và vùng dậy chống phong kiến và đế quốc của các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Vợ chồng A Phủ cũng là kết quả của một quá trình chuyển biến đến độ chín muồi của tư tưởng và tình cảm nhà văn. Tình cảm của tác giả đã quyện lẫn với tình cảm của dân tộc anh em một cách chan hòa tự nhiên, đó là tấm lòng biết ơn, thủy chung, tình nghĩa đối với các vùng du kích đã tiếp tế che chở cho cán bộ, bộ đội hoạt động ở vùng địch hậu Tây Bắc.

Là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người, những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc đời.

Vợ chồng A Phủ giá trị nhân đạo được thể hiện ngay từ đề tài, chủ đề của tác phẩm. Ngay nhan đề Vợ chồng A Phủ, tác giả đã thể hiện tư tưởng cốt lõi, chủ đạo của truyện. Đọc nhan đề, ta có thể hình dung ra ngay cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mèo vùng núi trước cách mạng tháng Tám.

Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh, bị mất quyền sống của người lao động miền núi, mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Mị vốn là một cô gái xinh đẹp mang trong mình biết bao phẩm chất cao quý.


Thế mà, kể từ khi bước chân về làm con dâu trừ nợ, thực chất là nô lệ không công cho nhà thống lí Pá Tra, dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, ị phải sống một chuỗi ngày đau thương, tủi nhục, tăm tối. Mị không bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đọa về tinh thần.


Mị bị đối xử như con vật, thậm chí không bằng con vật: "Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, tưởng mình là con ngựa, là con ngựa phải tới ở các tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi gì nữa… Con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào làm việc làm cả ngày lẫn đêm."

Sự đau khổ tủi cực đã cướp đi tuổi xuân của Mị, biến cô trở thành một kẻ cam chịu. Cô gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giàu lòng yêu đời thuở nào giờ gần như đã chết, chỉ còn la người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống vắng. Mị ngày càng không nói. Mị mất hết cảm giác thời gian: không dĩ vãng, không hiện tại, không tương lai.


Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua cái "lỗ vuông" của chiếc cửa sổ bằng bàn tay – trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị gần như tê liệt sức sống, lủi củi như con rùa nuôi trong xó cửa. Bằng những chi tiết chân thực, gợi cảm như thế, Tô Hoài đã làm cho bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm thêm sinh động, vừa có chiều rộng vừa có chiều sâu.

Chính hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến với tiếng gọi của cách mạng là một mốc thách thức với chính Tô Hoài. Có thể khẳng định với chi tiết này, Tô Hoài đã vượt qua được Chí Phèo của Nam Cao, Vợ chồng A Phủ được trao giải thưởng. Nhờ có sự kiện này mà Vợ chồng A Phủ trở thành một tác phẩm bản lềtrên diễn đàn văn chương. Nó khép lại những hạn chế của dòng văn học hiện thực phê phán một thời.

Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ – cũng bị bắt làm con ở trừ nợ đã làm hoàn chỉnh thêm bức tranh hiện thực, giá trị tố cáo và nội dung nhân đạo của tác phẩm. A Phủ là một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khổ, đau đớn hơn lại mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận dịch đậu mùa. Chính vì thế mà cả năm tháng tuổi thơ của anh phải sống kiếp nô lệ đọa đày khi bị người làng bắt trói rồi đem bán cho người Thái ở dưới cánh đồng.


Thế nhưng, không chịu khuất phục số phận, A Phủ đã liều lĩnh bỏ trốn lên Hồng Ngài, làm thuê làm mướn đủ nghề từ mùa này sang mùa khác để kiếm sống nuôi thân. Bản lĩnh gan góc, sức sống tiềm tàng đã được trui rèn trong những năm tháng cơ cực ấy và đó cũng chính là một trong những điều tạo nên sự bứt phá về sau trong cuộc đời A Phủ.

Từ khi trưởng thành, A Phủ càng chứng tỏ con người gan góc, không chịu khuất phục, luôn có ý chí vượt lên số phận cay đắng để vươn đến những điều tốt đẹp nhất của mình. Chàng “biết đúc lưỡi cày”, “đi săn bò tót rất bạo”. Chẳng những lao động giỏi mà A Phủ còn có sức khỏe hơn người: “A Phủ chạy nhanh như ngựa”, “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”. Chính nghị lực sống và sức khỏe của anh đã khiến cho nhiều cô gái và người làng yêu mến.

Chỉ vì đánh lại con quan A sử trong việc phá đám chơi ngày tết mà A Phủ bị trói mang đến nhà Phá Tra để xử kiện. Từ đây, anh bỗng vĩnh viễn trở thành con trâu, con ngựa, như một nô lệ cho nhà Pá Tra. Hơn nữa, cho đến cả đời con, đời cháu, bao giờ trả hết nợ mới thôi. Và nếu không gặp Mị, chắc chắn A Phủ đã phải chết một cách thê thảm tại nhà thống lí.

Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực thực dân phong kiến cùng bọn chúa đất thổ ty. Điển hình cho thế lực đối lập, chà đạp lên cuộc sống con người là cha con thống lí Pá Tra. chúng đã lợi dụng sức mạnh cường quyền, thần quyền, hủ tục để biến người lao động thành nộ lệ không công và đối xử với họ lạnh lùng, tàn nhẫn như đối xử với con vật.


Có biết bao nhiêu người phụ nữ, thanh niên như Mị và A Phủ đã bị biến thành công cụ lao động. Sống đời sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí. Có biết bao nhiêu người đã bị trói đứng, thậm chí trói cho đến chết ở nhà Pá Tra? Chúng ta không thể biết con số cụ thể, nhưng qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ, người đọc vẫn cảm nhận, căm ghét sự tàn bạo, vô lương tri của bọn cường hào miền núi.

Bên cạnh thái độ cảm thông, chia sẻ và lên án, tố cáo, Vợ chồng A Phủ còn là một bài ca ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Bên cạnh thái độ cảm thông, chia sẻ và lên án, tố cáo, đặt niềm tin, sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng tốt đẹp của những con người bị đày đoạ, đau khổ. Đó là sự kế tục chủ nghĩa nhân đạo truyền thống, đồng thời phát triển lên một mức cao hơn.

Người đọc không chỉ thương một cô Mị khốn khổ, bị đoạ đày, mà còn yêu một cô Mị tài hoa, ham sống, giàu lòng hiếu thảo, đức hi sinh và tinh thần vật lộn, đấu tranh để vượt lên hoàn cảnh. “Điều kỳ lạ là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực tội ác cũng không giết được sức sống con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt” (Tô Hoài). Ách thống trị của cường quyền, thần quyền, hủ tục đã không giết hẳn hình ảnh người con gái tài hoa, yêu đời trong Mị.


Dưới đống tro tàn của hiện tại, mầm sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy trong Mị, chỉ chờ một sự tác động ngoại cảnh để bùng dậy, cháy sáng. Đêm tình mùa xuân và cảnh Mị cởi trói cho A Phủ là những trang văn hay nhất trong tác phẩm, đánh dấu sự bừng tỉnh của con người đấu tranh trong Mị.


Bên cạnh Mị, hình ảnh A Phủ, chàng trai Mèo dũng cảm, gan góc, phóng khoáng của thiên nhiên Tây Bắc cũng là một nhân vật để lại nhiều ấn tượng với người đọc. Mị và A Phủ tiêu biểu cho tâm hồn, vẻ đẹp con người miền núi và thái độ trân trọng, ngợi ca của tác giả.

Đọc những trang sách của Tô Hoài viết về số phận bi thương của Mị và A Phủ, ta có cảm giác đó không còn là những dòng chữ lạnh lùng nữa mà là những dòng nước mắt chảy thằng từ trái tim tràn đầy tình thương yêu nhân đạo của tác giả khóc thương cho thân phận xấu số của nhân vật.

Giá trị nhân đạo trong Vợ chồng A Phủ còn mang nét mới, tiến bộ hơn chủ nghĩa nhân đạo truyền thống. Đó là nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác, từ tăm tối đau thương vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của Đảng như một tất yếu lịch sử.


Con đường đó được nhà văn miêu tả cụ thể qua quá trình đấu tranh của Mị và A Phủ từ lúc trốn khỏi Hồng Ngài đến lúc trở thành những người du kích Phiềng Sa. Từ những con người nô lệ u mê, câm lặng, họ đã tự phá bỏ sợi dây trói hữu hình thắt chặt cuộc đời họ trong nhà thống lý Pá Tra để đi theo tiếng gọi của tự do, để giác ngộ một chân lý: chỉ có cách cầm súng đánh lại bọn thống trị, họ mới có thể có được cuộc sống bình yên, hạnh phúc.

Một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng dù ở đề tài nào, góc độ nào, tinh thần nhân đạo luôn là giá trị cốt lõi. Nhờ có giá trị nhân đạo mà qua hơn nửa thế kỷ nay, người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với con người, với tình tiết của câu chuyện. Nỗi khổ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ mãi mãi là vấn đề của văn học. Sự khám phá mới mẻ của Tô Hoài nhằm hoàn thiện con người, bản thân họ cũng như cách nhìn của con người với cuộc đời.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Hồng Quyên

225 chủ đề

2179 bài viết

Cùng chủ đề
Có thể bạn quan tâm
0