Bài văn phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích của tác giả Nguyễn Du
Phân tích đoạn thơ ‘Kiểu ở lẩu Ngưng Bích''. Ta hãy hình dung lúc này Kiều đang ngồi trên lầu Ngưng Bích trước một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng không một bóng người thân thuộc, không bầu bạn. Tâm trạng Kiểu lại vừa trải qua những đau khổ tủi nhục mà dư vị vẫn còn da diết ... Bài ...
Phân tích đoạn thơ ‘Kiểu ở lẩu Ngưng Bích''. Ta hãy hình dung lúc này Kiều đang ngồi trên lầu Ngưng Bích trước một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng không một bóng người thân thuộc, không bầu bạn. Tâm trạng Kiểu lại vừa trải qua những đau khổ tủi nhục mà dư vị vẫn còn da diết ...
Bài làm
Sau khi trải qua liên tiếp nhiều tai biến của gia đình và bản thân, Kiều đã dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp phải chịu. Những ngày nàng ‘ỏ lầu Ngưng Bích’ là một khoảnh khắc yên thân tạm thời vì được Tú Bà hứa không phải tiếp khách và ở một nơi biệt lập. Nhưng tâm trạng của nàng trong những ngày ở đây là một bi kịch nội tâm đã được Nguyễn Du miêu tả tài tình, trở nên bất từ cùa loại thơ ‘tả cảnh ngụ tình’ trong văn chương cổ điển. Thúy Kiều một mình đối diện với cảnh vật thiên nhiên và đối diện vói lòng mình trong hoàn cảnh đất khách quê người.
Cả đoạn thơ là nỗi buồn, một nỗi buồn mênh mang vô tận, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, nỗi buồn không thể gì làm vơi bớt, không có ai để chia xẻ.
Ta hãy hình dung lúc này Kiều đang ngồi trên lầu Ngưng Bích trước một khung cảnh thiên nhiên vắng lặng không một bóng người thân thuộc, không bầu bạn. Tâm trạng Kiểu lại vừa trải qua những đau khổ tủi nhục mà dư vị vẫn còn da diết:
‘Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.’
Cảnh thiên nhiên trải rộng mênh mông, trùm phủ lên tâm hồn Kiểu, vừa đối lập vừa hòa hợp:
‘Bôn bê bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hổng dặm kia.’
Nàng chỉ thấy non xa với trăng gần, thấy cát vàng bát ngát và bụi hồng xa xôi. Bầu trời thì cao rộng vô tận. Cái vắng lặng và mênh mồng của vũ trụ, thiên nhiên đối
lập với cái bé nhỏ cô độc cùa số phận làm tăng thêm cảm giác chua xót, đau thương trong lòng Kiểu.
Cảnh thì như vậy, còn tình ra sao? Tinh của Kiều là nỗi nhớ. Mà nhớ trước tiên của nàng lúc này là Kim Trọng, sau mới đến cha mẹ:
‘Tưởng người dưới nguyệt chén đổng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.’
Nhớ đến Kim Trọng, Kiều nhớ đến cảnh ‘dưới nguyệt chén đổng’, nhớ đến lòi thể nguyễn dưới trảng đêm nao. Hiểu Kim Trọng, biết rõ tấm lòng chung thủy của chàng, Kiều tin rằng chàng khắc khoải ‘rày trông mai chờ’. Bây giờ nàng đã ở nơi ‘chán trời góc hiển hơ vơ’, nhưng nỗi nhớ thương Kim Trọng vẫn là ‘tấm son’ không dễ gì thời gian hay xa cách có thể làm cho nó lạt phai đi. Đối với người yêu là ‘tưởng nhớ’’,còn đối với cha mẹ thì Kiểu đã hi sinh đời mình để cứu cha khỏi tù ngục. Nay phải lưu lạc nơi đất khách quê người để cho gia đình sum họp, Kiều đã ‘xót’ thương:
‘Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai dó giờ?’
Cũng là ‘người’ nhưng ‘thi liệu, điển cô’ vận dụng ở đây đã phân biệt hai mối quan hệ khác nhau, hai tình cảm khác nhau. Đôi với tình yêu, Kim Trọng thì ‘dưới nguyệt, chén đổng’, ‘tấm son gột rửa’. Còn đối với cha mẹ thì ‘quạt nồng ấp lạnh’, ‘sân lai’, ‘gốc tử'. Đó là những điển cố ước lệ, một phương pháp ẩn dụ quen thuộc của văn học cổ. Cái tài của Nguyễn Du ở đây là sự kết hợp tài tình giữa các điển cố với ‘thành ngữ'-, rày trông mai chờ, bên trời góc biển, tựa cửa hôm mai... càng diễn tả sinh động, chân thực sâu sắc nỗi lòng tưởng nhớ người yêu, xót thương cha mẹ. Mấy lòi độc thoại nội tâm hết sức tha thiết này cũng đủ cho ta thấy Kiểu là hiện thân cùa tình thương. Càng thương nhớ càng buồn vì nỗi xa cách phiêu dạt. Nỗi buồn xâm chiếm cả lòng Kiều. Nàng trông ra bốn phương trời, đâu cũng chỉ thấy buồn. Bốn bức tranh mà Kiểu nhìn đến đều được Nguyễn Du bắt đầu bằng hai chữ buồn trông:
- Buồn trông cửa hể chiều hôm,
- Buồn trông ngọn nước mới sa,
- Buồn trông nội cò dàu dàu, *
- Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh.
Từng cảnh vật đểu nhuốm cái buôn của người ngắm cảnh. Cũng có hoà cỏ, nhưng là hoà trôi cỏ héo. Cũng có trời nước, nhưng mây trời thì sắc màu nhàn nhạt, còn dòng nước thì lạnh lẽo cuốn trôi những cánh hoà rơi. Cũng có gió, sóng nhưng là gió cuốn, sóng xô. Giữa cái thế giới của thiên nhiên ấy, có một nét sinh hoạt của con người; dó là một con thuyền, một cánh buồm. Nhưng những nét đó cũng thật mỏng manh: cánh buồm thì cô đơn, xa lạ, chỉ thấp thoáng chứ không hiện rõ ra. Phải chăng những hình ảnh ‘hca trôi man mác’ trên dòng nước mênh mông muốn nói đến tâm trạng và số phận vô định của nàng Kiểu. Nếu ‘nội cỏ dàu dàu’ giữa ‘chân mây mặt đất’ gợi cảm giác bi thương, buồn tẻ, thiếu sức sống thì cảnh ‘gió cuốn mặt ghềnh’, ‘ầm ẩm tiếng sóng’ lại gợi nỗi hãi hùng về một cuộc đời đầy biến động.
Tiếng sóng ầm vang khắp bốn phía vây chạt lấy Kiều, dội vang khủng khiếp trong hổn Kiểu. Phải chàng ầm thanh xao động dữ dội này chính là dự báo cho mười lăm năm lưu lạc đấy cay đáng mà Thúy Kiều sẽ phải trải qua.
‘Kiều ở lầu Ngưng Bích’ là một đoạn thơ mượn cảnh dể nói hộ tâm sự cùa nàng Kiều, đã tả tình bằng cách tả cảnh, đã thông qua bức tranh thiên nhiên để thể hiện tâm trạng. Đó là bút pháp tài tình của Nguyễn Du, và đạt đến đỉnh cao như vậy vì trước hết nhà thơ đã có cái tình lớn, nỗi niềm xúc động đối với nhân vật, đối với cuộc đời của những con người có tài hoà mà bất hạnh trong xã hội phong kiến.