Bài văn hay nghị luận về câu ca dao bầu ơi thương lấy bí cùng
Văn học nghị luận là một thể loại văn học xuất hiện khi chúng ta học lớp 8. Với thể loại văn học nghị luận bạn sẽ có một cách nhìn khác hẳn với các thể loại văn học khác. Cùng với một bài văn rất hay thể loại nghị luận một câu ca dao rất quen thuộc. Chúc bạn tìm được thông tin bổ ích trong bài văn ...
Văn học nghị luận là một thể loại văn học xuất hiện khi chúng ta học lớp 8. Với thể loại văn học nghị luận bạn sẽ có một cách nhìn khác hẳn với các thể loại văn học khác. Cùng với một bài văn rất hay thể loại nghị luận một câu ca dao rất quen thuộc. Chúc bạn tìm được thông tin bổ ích trong bài văn này nha.
Ca dao Việt Nam có câu:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Em hãy giải thích câu ca dao trên.
Bài làm
Các nhà nghiên cứu văn chương truyền khẩu đều cho rằng tục ngữ là kho tàng trí tuệ, đúc kết kinh nghiệm sống của tổ tiên bao đời, còn ca dao chính là những khúc ca, câu hát trữ tình phong phú nhất của dân tộc. Có bao nhiêu hoàn cảnh sống là có bấy nhiêu câu hát. Lao động mệt nhọc ư? Đã có khủc hát hò dô, hát ví, hát đối... Công cha nghĩa mẹ, tình cảm riêng tư, tình thương của cộng đồng người khác màu da, chủng tộc trên cùng một vùng đất,... là những đề tài thường thấy trong ca dao. Chúng ta thường nhắc nhở nhau:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Về nghĩa đen thì câu ca dao không có lấy một từ Hán - Việt. “Bầu - bí - giống - giàn” là những từ gợi hình giữ nhiệm vụ chính cũng không xa lạ gì với người đọc. Bầu, bí là hai loài thực vật, khác nhau về cây, lá, trái nhưng cùng họ dây leo nên người miền quê thường gọi là dây bầu, dây bí. Khác với dưa hấu, bí ngô bò sát đất, bầu và bí cùng phát triển trên một cái giàn làm bằng thân, cành gỗ, tre... gồm những chiếc cột và những thân cây gác ngang tạo thành những ô vuông nhỏ. Dù đơn sơ hay vững chắc, thấp hay cao thì mặt giàn cũng phải cách mặt đất khoảng trống đủ cho trái bầu, trái bí treo lủng lẳng, đong đưa,... Như vậy, dù gốc - giống có khác nhau nhưng xét cho cùng cả bầu lẫn bí đều có những điểm chung. Nếu có cảm xúc, có tri giác thì bầu - bí kêu gọi thương yêu nhau cũng là lẽ thường tình.
Đứng lẻ loi một mình thì “bầu, bí” là những từ mang tính hiển ngôn. Nhưng có động từ “thương” tham dự vào thì chúng còn mang những đặc tính hàm ngôn. “Bầu - bí” trong câu ca dao tượng trưng cho những sắc dân nào đó cùng sống “chung một giàn”, một quê hương - Tổ quốc.
Tìm về cội nguồn dân tộc trong kho tàng truyện thần thoại, truyện cổ,... chúng ta càng hiểu rõ hơn ý nghĩa của hai câu ca dao trên. Cuộctình của Cha - Mẹ thuở xưa đúng là khác giống đã nảy sinh trên vùng đất Lạc Việt. Lạc Long Quân nòi rồng, sống ở vùng biển, Âu Cơ thuộc dòng dõi Thần Nông ở miền núi, vì yêu thương nên cùng nhau chung sống, hai người sinh được trăm con, sau này năm mươi con theo cha về biển, năm mươi con theo mẹ lên ngàn chia nhau cai quản mỗi người một phương, cùng hứa hẹn lúc cần thiết thì kêu gọi để giúp đỡ lẫn nhau.
Truyện cổ của người Ba-na cũng mang ý nghĩa tương tự. Người ch- giận đứa con út vô tình nên đã đuổi anh ra khỏi nhà. Người anh vàng vào rừng, báo cho vợ của người em biết. Nàng vào rừng sâu, núi cao tìm gặp chồng. Họ cùng phá nương làm rẫy, xây dựng buôn làng để thành người Ba-na. Còn người anh vẫn sống cùng cha ở đồng bằng đề trở thành người Kinh.
Qua hai truyện cổ trên, xem ra các dân tộc trên dải đất hình chữ s này không chỉ cùng “giàn” mà còn cùng gốc, nhưng vì hoàn cảnh nên phải sống xa nhau, và phong cách sống cũng biến đổi dần theo công việc, theo phong thổ.
Giờ đây, trên vùng đất được xem như cái bao lơn trông ra Thái Bình Dương này tập hợp trên năm mươi sắc dân: Tày, Dao, Nùng, Mường, Thái, Ê-đê... làm phong phú thêm sắc thái của người dân Việt.
Phải công nhận rằng tổ tiên đã sớm nhận ra tâm lí thường ngày của con người trong cuộc sống. Đời sống riêng tư của một người, của gia đình, dòng họ nhiều lúc làm con người quên mất đời sống của người khác. Con người chỉ biết vun vén, xây dựng hạnh phúc riêng nên quên mất hạnh phúc chung, quên mất tình thương đối với những người cùng chung đất nước đang lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo đói cơm thiếu áo bởi nạn binh đao, bởi thiên nhiên khắc nghiệt.
Quá khứ giúp chúng ta nhận ra rằng dân tộc chúng ta luôn bị nạn ngoại xâm đe dọa. Mỗi lần quân giặc tràn qua, người dân vùng biên giới lại phải hứng chịu cảnh tan cửa nát nhà. Họ đang ở tuyến đầu nên phải cầm gươm, súng chống giặc, chẳng có thì giờ để cầm cuốc, cầm cày, chẳng có thì giờ để vào xí nghiệp... Nơi nào có bóng dáng của chiến tranh thì nơi ấy chịu cảnh tiêu điều, tang thương. Từ thuở Hùng Vương dựng nước đến nay đã bao lần người dân ở vùng biên giới phương Bắc lâm nào cảnh đói cơm, thiếu áo...?.! Từ cậu bé làng Gióng cưỡi ngựa sắt xông ra mặt trận chống lại giặc Ân, Hai Bà Trưng cất binh chống lại nhà Đông Hán, rồi Lê Hoàn, Ngô Quyền, Lí Thường Kiệt, Trần HưngĐạo, Lê Lợi, Quang Trung... và ngay cả vào năm 1979 khi súng vừa im ỏ' biên giới Tây Nam thì đạn nổ ở chân trời phía Bắc. Những làng mạc sát gần biên giới Campuchia từ Quảng Tín đến Hà Tiên đã làm mồi cho ngọn lửa bạo tàn của bè lũ Pôn Pốt. Thành phố, làng mạc chạy dọc theo biên giới sáu tỉnh miền Bắc bị đốt cháy, nghiền nát bởi đại bác và xe tăng chẳng khác gì cảnh đổ nát, tang thương của những tháng năm giặc Nguyên, giặc Minh, Thanh sang xâm lược.
Những lúc vận mệnh đất nước lâm vào nguy khốn ấy thì lại xuất hiện “bọn gian tà bán nước cầu vinh” được Nguyễn Trãi tường trình trong Bình Ngô đại cáo, hay như cụ Phan Bội Châu đã nhận định: “Sống trong nước mỗi người một khác Vốn cùng nhau xung khắc bất hòa Những là ta lại hại ta Cầu thân dị chủng mà xa đồng bào”.
Nhưng nếu có số ít người phản bội ấy thì cũng không thiếu triệu triệu tấm lòng đồng thanh kêu gọi:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Tình thương đã tỏ ra thì mọi người đoàn kết lại, lửa căm hờn sôi sục tạo nên sức mạnh thiêu sạch quân thù!
Chúng ta cũng cần nhớ đất nước thân yêu nằm trong vùng nhiệt đới, kéo dài gần 2000 cây số theo đường chim bay, là cái bao lơn trông ra Thái Bình Dương, địa thế thuận lợi giao thương nhưng luôn luôn bị đe dọa bởi thiên tai. Truyện cổ Sơn Tinh - Thủy Tinh luôn là bài học cảnh giác. Cả ba miền Bắc - Trung - Nam đều chịu bão lụt, nhất là miền Bắc và miền Trung. Nếu miền Bắc có lưu vực sông Hồng đất đai màu mỡ, miền Nam với vùng châu thổ sông Cửu Long, đồng ruộng thẳng cánh cò bay, cá tôm phong phú, vùng duyên hải vừa có đồng ruộng vừa đa dạng hải sản hải sản thì cũng có lắm vùng như lời thơ Chính Hữu: “Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Đất nghèo chất dinh dưỡng, bão lụt hạn hán thường xuyên ập đến khiến những người dân ở vùng ngập mặn nhiều phen phải sống trong cảnh khốn khổ, người dân ở vùng đất cày lên sỏi đá phải dốc hết sức lực nhưng cái đói vẫn không buông tha. Tổ tiên của chúng ta khôngquên đồng bào ở những vùng đất ấy. Mỗi lần thiên tai ập đên là mỗi lần có lời kêu gọi thiết tha cất lên:
Nhiễu điều phủ lấy giá gươn , “Người trong một nước thì thương nhau cùng”.
Bất cứ thời đại nào, dù sống ở đâu, mỗi khi biết đồng bào gặp hoàn cảnh khó khăn thì họ lại nhắc câu hát “Bầu ơi...” đã có tự bao giờ.