Bài soạn "Vợ chồng A Phủ" số 3 - 6 Bài soạn "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài lớp 12 hay nhất
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM 1. Tác giả Tô Hoài (1920-2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô, quận ...
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả
Tô Hoài (1920-2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công. Thời trẻ, ông đã lăn lội kiếm sống bằng nhiều nghề, như làm gia sư dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,...và nhiều khi thất nghiệp.
Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một số truyện vừa viết theo dạng võ hiệp, nhưng rồi ông nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay, trong đó có Dế mèn phiêu lưu kí. Năm 1943, ông ra nhập hội văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, tự truyện, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam.
Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bằng lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có- nhiều khi rất bình dân và thông tục. Năm 1996, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu ký (truyện 1941), O chuột (tập truyện, 1942), Quê người ((tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (truyện 1953), miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi ký,1992), Chiều chiều (tự truyện), Ba người khác (2006).
2. Tác phẩm
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (1952) in trong tập truyện Tây Bắc, được tặng giải Nhất - giải thưởng Hội văn nghệ Việt Năm 1954-1955, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ gần như nguyên vẹn giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ người đọc.
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử - con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 14 sgk ngữ văn 12 tập 2
Tìm hiểu số phận và tính cách nhân vật Mị qua:
Cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống bị đọa đày tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.
Diễn biến tâm trạng và hành động
Bài làm:
Hình ảnh Mị qua cảnh ngộ bị bắt về làm dâu để gạt nợ, cuộc sống bị đọa đày tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.
Mị xuất hiện trong lời kể về thời qúa khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện, bông hoa ban thuần khiết của núi rừng Tây Bắc. Xuất thân trong một gia đình nghèo nhưng Mị được thiên phú hình dáng và nhiều tư chất tốt đẹp. Mị không chỉ đẹp mà trong cô còn ẩn tàng sự yêu đời, ham sống, say sưa với mối tình đầu. Những ngày tháng tuỏi trẻ của cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu đêm hội đất mièn tây. Mỗi ngày sống, trái tim cô như tràn căng hồi hộp sung sưởng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Cái đau đớn của số phận Mị bắt đầu từ một thứ tội truyền kiếp mãn tính của người nghèo, đó là không tiền của tất yếu sẽ trở thành nô lệ. Bố Mị vay tiền của Pá Tra - số nợ lãi đến khi mẹ cô chết mà bố vẫn không trả hết. Mị đã trở thành vật thế gán nợ và thành nô lệ trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. Và cũng bắt đầu bằng một nguyên nhân đau đớn bi phẫn, đó là “lỗi” của người xinh đẹp với phẩm hạnh trắng trong. Mị trở thành cô con dâu gạt nợ, một thứ “hàng hóa” trao đổi.
Phản ứng của Mị những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc và định tự tử. Đây là phản ứng tự nhiên của cô gái trẻ yêu đời bỗng nhiên bị tước đoạt hết tự do; đồng thời cũng là phản kháng quyết liệt của con người ham sống muốn kiếm tìm một cuộc sống cho ra sống. Cuộc sống với tất cả tự nhiên của kiếp người chứ không phải vật vờ tồn tại trú ngụ cái rỗng không trong thể xác. Đã bao lần Mị định chết, thế nhưng điều đó thật xót xa. Mị muốn chết cũng không được chết. Bởi cô chết món nợ đó vẫn còn, và đương nghiên cha cô là người phải chịu món nợ đó. Vì thương cha, Mị đành tiếp tục sống.
Những năm tháng sống trong nhà thống lí Pá Tra là chuỗi ngày địa ngục, Mị xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự. Nhà văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mị bị mài mòn. Trong đầu Mị, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ chìm; thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vòng tròn nặng nề không lối thoát: " Mỵ cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngưạ, con trâu làm còn có lúc nghỉ ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày".
Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con thống lí trên thân xác, bản thân Mị bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết. Ý chí của Mị dần bị đè bẹp dưới sức mạnh tàn bạo thời trung cổ, mà hệ quả của nó là làm cho nỗi cay đắng đen tối luôn đọng lại đặc quánh trong Mi.Cô tự rút ra kết luận: mình không bằng con ngựa. Và rồi hành động của cô tê liệt : lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mị thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thần quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mị không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. Chúa đất miền núi và tập tục cúng ma do chúng lập nên, đã ràng buộc một cô gái có chồng và Mị sống song tồn với một ý nghĩ : Mình đã " trình ma nhà thống lý thì chỉ có còn cách chết rũ xương ở đây. Tô Hoài đã sắc sảo nhìn thấy việc tập tục mê tín thần quyền bắt tay với giai cấp thống trị tạo ra một thứ "thuốc phiện tinh thần" trói chặt đời Mị nô dịch tinh thần cô.
Mị bị cấm đoán trong việc hoà nhập cộng đồng. A sử trói Mi , dùng bạo lực quyết liệt tách Mị ra khỏi thế giới con người . Vì vậy, bên trong thể xác tơi tả của Mị là tâm hồn cô đơn trống rỗng, nếu còn một mảnh nhỏ cũng bị cào nhàu nát. Thể xác ấy, tâm hồn ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, làm cho nỗi đau thêm chồng chất, sự bất lực đến cực cùng. Tô Hoài xây dựng đoạn truyện đầy ẩn dụ về căn buồng của Mị. Nhà văn giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nô lệ.
Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng. Trước mắt Mị chỉ là sắc màu hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. MỊ thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. Cách áp chế ấy của gia đình thống lý Pa tra, đã tạo ra những hệ quả ghê ghớm, nó đập vỡ biến dạng tâm hồn vốn trong như pha lê của cô gái trẻ trung yêu đời là Mị.
Diễn biến tâm trạng và hành động
Mị là cô gái có sức sống mãnh liệt, cuộc sống bị trà đạp tủi cực như vậy nhưng không làm mất đi khát vọng sống của cô. Sức sống ấy tồn tại trong cô gái trẻ, nó giống như lò than hồng âm ỉ cháy chỉ cần một cơn gió thổi lên là bùng thành ngọn lửa. Ngọn lửa ấy bùng cháy trong đêm tình mùa xuân. Mị muốn đi chơi và quyết định đi chơi. Mị sống lại với những ký ức tuổi xuân, Mị nghe tiếng sáo vọng lại tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi "mày có con trai con gái rồi/ mày đi làm nương/ ta không có con trai con gái/ ta đi tìm người yêu". Tiếng chó sủa xa , những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Mị say và rồi cô sống lại những ngày về trước, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao người mê và đi theo Mị. ... Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Khi thức tỉnh, Mị ý thức được cuộc sống của mình, về thân phận của mình. Vì ý thức được nên Mị muốn chết để thoát khỏi cái cuộc sống này. Và cuối cùng Mị quyết định đi chơi. ' trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía vách".Bị trói nhưng Mị không biết bởi hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo trong những cuộc chơi và vùng bước đi. Nhưng vì bị trói, không đi được Mị lúc này mới tỉnh và biết mình bị trói.
Sau cuộc nổi loạn trong đêm tình mùa xuân, cuộc sống của Mị càng bị o ép trói buộc hơn. Những đêm mùa đông dài trên núi cao Mị chỉ còn biết thức với ngọn lửa. Sống với ngọn lửa với tâm trạng cô đơn. buồn tủi cho số kiếp của mình. Những tưởng cô gái ấy lại tiếp tục cam chịu, tiếp tục chấp nhận cuộc sống mê muội nơi nhà Pá Tra. Thế nhưng vì lòng thương người, Mị cứu A Phủ và vì sợ chết Mị chạy theo A Phủ và giải thoát cho mình (từ chỗ ban đầu cũng thấy A Phủ bị trói vẫn bình thường, dưng dưng. Nhưng trong đêm cuối ở nhà Pá Tra nhìn thấy giọt nước mắt A Phủ thì Mị vì thương A Phủ, có những hành động đổi khác. chặt dây trói cứu A Phủ. Nhưng rồi vì sợ chết, sợ cha con thống lí biết Mị cứu A Phủ cũng sẽ giết cô. Vì thế, cô quyết định chạy theo A Phủ.
Như vậy, qua diễn biến tâm trạng và hành động của Mị. Ta thấy rõ, Mị là cô gái có sức sống tiềm tàng mãnh liệt, cô gái có lòng thương người.
Câu 2: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2
Ấn tượng của anh (chị) về tính cách nhân vật A Phủ (qua hành động đánh nhau với Sử, lúc bị xử kiện và khi về làm công gạt nợ nhà thống lí Pá Tra). Bút pháp của nhà văn khi miêu tả nhân vật Mị và A Phủ có gì khác nhau?
Bài làm:
Tính cách nhân vật A Phủ qua các tình huống:
A Phủ xuất hiện trong cuộc đối đầu với A Sử: A Phủ là người tự do, hồn nhiên chất phác, bảo vệ lẽ phải. "Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lang vào giữa mặt. Nó vừa kịp bung tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hàng loạt các động từ chỉ hành động nhanh, mạnh, dồn dập thể hiện một tính cách mạnh mẽ, gan góc, một khát vọng tự do được bộc lộ quyết liệt. Cuộc sống khổ cực (nhà nghèo, cha mẹ chết trong trận dịch đậu mùa) đã hun đúc A Phủ tính cách ham chuộng tự do, một sức sống mãnh liệt, một tài năng lao động đáng quý: "biết đúc lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do, hồn nhiên, chất phác.
Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra các lỗ cửa sổ như khói bếp. "Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong lần lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm". Còn A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im như tưọng đá. Hủ tục và pháp luật trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành con ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp cho nhà thống lí Pá Tra. Cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng và cảnh A Phủ bị đánh, bị trói vừa tố cáo sự tàn bạo của bọn chúa đất vừa nói lên tình cảnh khốn khổ của người dân.
Khi về nhà thống lí Pá Tra làm công gạt nợ A Phủ vẫn luôn làm việc chăm chỉ,và A Phủ là một người trung thực bởi khi bò bị hổ bắt mất. A Phủ có thể bỏ trốn tuy nhiên A Phủ không hề bỏ trốn mà vẫn về nhà báo với thống lí và chịu trói. Bút pháp của Tô Hoài khi miêu tả nhân vật Mị có những nét khác với khi miêu tả nhân vật A Phủ. Tác giả dành cho Mị những trang văn buồn thương, đau xót; còn với A Phủ, tác giả dùng những lời văn mạnh mẽ, rắn rỏi (bên những câu buồn thương, đau xót xuống nhân vật Mị).
Câu 3: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2
Những nét độc đáo trong quan sát và diễn tả của tác giả về đề tài miền núi (nếp sinh hoạt, phong tục, thiên nhiên, con người, xây dựng tình huống, cốt truyện, nghệ thuật dẫn truyện)
Bài làm:
Với tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã cho ta thấy được nét đọc đáo trong quan sát và diễn tả của Tô Hoài về đề tài miền núi.
Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề…).
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với nhũng chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ (trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ... Đám trẻ con, chơi quay cười ầm trước sân nhà.
Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn
Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi (tôi cướp được con gái bố làm vợ, ném pao, tiếng sáo, kèn lá).
Luyện tập: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2
Qua số phận của cả hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy phát biểu ý kiến của anh (chị) về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Bài làm:
Qua tác phẩm ta thấy xót thương cho Mị cô gái xứng đáng có được hạnh phúc. Ấy vậy mà, cô gái ấy phải trở thành dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Một con người có sức sống mãnh liệt Mị trở nên lầm lũi và không còn sức phản kháng. Bên cạnh Mị là A Phủ - chàng trai của núi rừng, ưa tự do, chất phác cũng trở thành kẻ làm công gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Điều đó mới thấy được sự bạo ngược của bọn thống trị, chà đạp số phận con người.
Gía trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện khi qua hành động đối xử tàn bạo của cha con nhà thống lí với Mị và A Phủ chẳng khác gì con vật biết nói. Qua sự thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân nghèo tác giả phát hiện được sức sống mãnh liệt và phẩm chất tốt đẹp nơi con người họ. Với Mị trong đêm tình mùa xuân Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi và quyết định đi chơi. Mị còn là một người có lòng thương người khi thấy những giọt nước mắt của A Phủ rơi, cô đã quyết định cứu A Phủ và rồi vì sợ chết, thương chính mình Mị quyết định đi theo A Phủ. Trong khi đó, A Phủ vẫn nổi bật lên là một chàng trai dám chịu trách nhiệm, chỗ dựa cho Mị khi A Phủ bảo Mị "đi theo tôi". Chính những phẩm chất tốt đẹp đã giúp Mị và A Phủ thức tỉnh và rồi họ rời Hồng Ngài đến Phiềng Xà và giác ngộ cách mạng.
Như vây, tác phẩm Vợ chồng A Phủ mang giá trị nhân đạo và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó được tạo bởi niềm cảm thông sâu sắc nỗi đau của con người. Sự nâng niu nét đẹp tâm hồn và hơn cả là sự giải phóng số phận của con người.