31/03/2021, 14:49

Bài soạn "Những câu hát châm biếm" số 4 - 6 Bài soạn "Những câu hát châm biếm" lớp 7 hay nhất

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng, dân gian Việt Nam. Qua các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược và phóng đại… những câu hát châm biếm đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán thói hư, ...

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng, dân gian Việt Nam. Qua các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược và phóng đại… những câu hát châm biếm đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán thói hư, tật xấu của những hạng người và sự việc đáng cười trong xã hội.

1. Cái cò lặn lội bờ ao,

Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?

Chú tôi hay tửu hay tăm,

Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.

Ngày thì ước những ngày mưa,

Đêm thì ước những đến thừa trống canh.

2. Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà

Số cô có mẹ, có cha

Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông

Số cô có vợ có chồng

Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai

3. Con cò chết rũ trên cây,

Cò con mở lịch xem ngày làm ma.

Cà cuống uống rượu la đà,

Chim ri ríu rít bò ra lấy phần.

Chào mào thì đánh trống quân,

Chim chích cởi trần, vác mõ đi rao.

4. Cậu cai nón dấu lông gà,

Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.

Ba năm được một chuyến sai,

Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê.


B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1 (Trang 52 SGK) Bài 1 “giới thiệu” về “chú tôi” như thế nào? Hai dòng đầu có ý nghĩa gì? Bài này châm biếm hạng người nào trong xã hội?

Bài làm:
Chân dung của chú tôi:
Là người nát rượu nghiện ngập ("hay tửu hay tăm")
Là người thích hưởng thụ ăn chơi ("hay chè đặc, hay ngủ trưa")
Là người lười biếng lao động ("ước ngày mưa, ước đêm thừa")
==> Đây là một người chú đầy những thói hư tật xấu, nhìn vào chân dung này ai cũng lắc đầu ngán ngẩm… Như vậy, bằng vài nét biếm họa, tác giả dân gian đã dựng nên bức chân dung của “chú tôi” đầy giễu cợt, mía mai và châm biếm.

Hai dòng đầu bài ca dao có ý nghĩa rất quan trọng, mang tính chất dẫn dắt, giới thiệu nhân vật, tác giả dân gian đã dùng biện pháp nghệ thuật đối lập đế gây ấn tượng: Hai dòng đầu nói tới “cô yếm đào” - cô gái trẻ đẹp, hình ảnh cô gái hoàn toàn trái ngược với chú tôi – khác biệt một trời một vực. Ông chú lười biếng, nát rượu như thế mà lại định mai mối cho một cô yếm đào đẹp người, đẹp nết đến vậy, nhằm tạo nghịch cảnh gây cười.
Bài ca dao là lời chế giễu những hạng người lười biếngthích ăn chơi rượu chè. Hạng người này ở thời đại nào cũng có, cần phải lên án và phê phán.


Câu 2 (Trang 52 SGK) Bài 2 nhại lại lời của ai nói với ai? Em có nhận xét gì về lời của thầy bói? Bài ca này phê phán hiện tượng nào trong xã hội? Hãy tìm những bài ca dao khác có nội dung tương tự.
Bài làm:
Đọc bài ca dao số 2 ta nhận thấy: Tác giả dân gian nhại lại lời của thầy bói khi thầy phán cho người đi xem bói. Vì vậy, nó vừa mang tính khách quan lại vừa có tác dụng gây cười và châm biếm rất sâu cay.
Sự khẳng định của thầy bói nguỵ biện và rất vô nghĩa (về sự giàu nghèo, giới tính của mẹ cha, con cái) vì chỉ khẳng định những điều có tính tất yếu, ai cũng biết.
Mặc dù tác giả dân gian không bình luận, nhưng bài ca vẫn toát lên ý nghĩa châm biếm sâu sắc về hiện tượng mê tín dị đoan trong xã hội. đối với những hạng người hành nghề mê tín, lợi dụng lòng tin của người khác để lừa bịp kiếm tiền, trong khi bản thân thầy bói cũng dốt nát. Bên cạnh đó, bài ca dao còn châm biếm những kẻ mê tín một cách mù quáng do ít hiểu biết.
Những bài ca dao có nội dung tương tự:
Thầy bói ngồi cạnh giường thờ

Mồm thì lẩm bẩm tay sờ đĩa xôi.
Hòn đất mà biết nói năng

Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn.
Thầy đi xem bói bao người

Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.
Chập chập thôi lại cheng cheng
Con gà trống lớn để riêng cho thầy.
Đơm xôi thì đơm cho đầy,

Đơm mà vơi dĩa thì thầy không ưa.
Hòn đất mà biết nói năng

Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn
Thầy cúng ngồi cạnh giường thờ ,

mồm thì lẩm bẩm tay sờ đĩa
Số thầy là số lôi thôi,

Quanh năm chỉ những chùi nồi cả năm.
Tử vi xem bói cho người

số thầy thì để cho ruồi nó bâu


Câu 3 (Trang 52 SGK) Mỗi con vật trong bài 3 tượng trưng cho ai, hạng người nào trong xã hội xưa? Việc chọn các con vật để miêu tả, “đóng vai” như thế lí thú ở điểm nào? Cảnh tượng trong bài có phù hợp với đám tang không? Bài cao dao này phê phán, châm biếm cái gì?
Bài làm:
Trong bài ca dao số 3, mỗi con vật đều tượng trưng cho một hạng người trong xã hội:
Con cò tượng trưng cho những người nông dân trong xã hội thân phận nhỏ bé.
Cà cuống là những kẻ có vai vế, địa vị trong làng xã như xã trưởng, lí trường
Chim ri và chào mào tượng trưng cho cai lệ, lính lệ, đến kiếm chác chia phần
Chim chích tượng trưng cho những anh mõ đi rao việc trong làng
Bài ca dao số 3 có nội dung phê phán châm biếm vừa kín đáo lại rất sâu sắc. Có được điều đó là nhờ vào việc chọn lựa các nhân vật để miêu tả, “đóng vai” rất lí thú ở các điếm sau:
Làm cho cảnh tượng trở nên sinh động lí thú. Một xã hội loài người được thực hiện ra qua xã hội của loài vật.
Từng con vật với những đặc điểm riêng đầy sinh động. Nó tiêu biểu cho các hạng người trong xã hội.
Dùng thế giới loài vật đế ngụ ý nói về con người.
Cảnh tượng trong bài ca dao là cuộc đánh chén vui vẻ và cuộc chia chác diễn ra trong sự mất mát, tang tóc của gia đình người chết. Cảnh tượng đó không phù hợp với đám tang. Cái chết đầy thương tâm của cò đã trở thành cơ hội cho cuộc đánh chén say sưa, vô lốì của những kẻ cơ hội. Qua đây, bài ca dao muốn tố cáo, phê phán và châm biếm những hủ tục ma chay trong xã hội cũ.Phê phán hủ tục ma chay vô lí làm khổ người dân.


Câu 4 (Trang 52 SGK) Trong bài 4, chân dung “cậu cai” được miêu tả như thế nào? Em có nhận xét gì về nghệ thuật châm biến của bài ca dao này?
Bài làm:
Chân dung cậu cai
Vẻ bên ngoài :
Cai tức là cai lệ, chức thấp nhất trong quân đội thời phong kiến ; cậu – cách gọi người còn trẻ và có ý mỉa mai.
Đầu đội nón dấu lông gà – dấu hiệu của con người có quyền hành.
Ngón tay đeo nhẫn – dấu hiệu chứng tỏ sự giàu sang thích khoe khoang, tính cách của người thiếu đứng đắn.
Thực chất bên trong:
Một người có quyền lực như cậu mà ba năm mới có một chuyến sai, ba năm mới được một lần ra oai – quá ít ỏi.
Giàu sang thế mà áo lẫn quần đền không có phải đi mượn đi thuê
Hai câu sau đối lập về số lượng “ba năm”, “một chuyến”, “thuê”, “mượn” có tính chất gây cười. Như vậy ở hai câu này tất cả cái giàu sang, cái oai vệ của cậu cai đã phơi bày thực chất hết sức thảm hại đáng thương. Cái vỏ bên ngoài của cậu là căn nguyên của sự sĩ diện, thích khoe khoang mà thôi.
Nghệ thuật châm biếm:
Miêu tả có tính chất điểm xuyết.
Nghệ thuật phóng đại có tác dụng làm cho nhân vật cậu cai càng trở nên nực cười và thảm hại hơn: Ba năm được một chuyến sai, Áo mượn, quần thuê.
Tác giả dân gian đã khéo léo chọn từ xưng hô là: cậu cai (một từ vừa có tính chất nịnh bợ, vừa có tính chất châm biếm).


Luyện tập
Bài tập 1: trang 53 sgk Ngữ Văn 7 tập một

Nhận xét về sự giống nhau của bốn bài ca dao trong văn bản, em đồng ý với ý kiến nào dưới đây:
a) Cả bốn bài đều có hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng
b) Tất cả đều sử dụng biện pháp phóng đại
c) Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm
d)) Nghệ thuật tả thực có trong cả bốn bài
Bài làm:
Em đồng ý với ý kiến (c): Cả bốn bài đều có nội dung và nghệ thuật châm biếm.
Nội dung châm biếm của bốn bài ca dao là phơi bày các sự việc mâu thuẫn, phê phán những thói hư, tật xấu của các hạng người khác nhau cùng những sự việc đáng cười trong xã hội: loại người lười biếng, ham chơi, thích hưởng thụ; thói mê tín, dị đoan và những kẻ lợi dụng lòng tin của con người để trục lợi bất chính; những hủ tục lạc hậu khiến người nông dân khổ cực; thói sĩ diện, thích khoe mẽ của con người...
Nghệ thuật trào lộng dân gian được thể hiện đặc sắc qua các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược và phóng đại...
=> Vừa tạo nên tiếng cười châm biếm, vừa là sự phê phán nghiêm khắc những thói hư, tật xấu cũng như những sự việc đầy mâu thuẫn, đáng cười trong xã hội đương thời. Điều đó cũng đồng nghĩa với mong muốn những điều đó sẽ được thay đổi trong tương lai.


Bài tập 2: trang 53 sgk Ngữ Văn 7 tập một
Những câu hát châm biếm nói trên có điểm gì giống truyện cười dân gian?
Bài làm:
Những câu hát châm biếm nói trên có điểm tương đồng với truyện cười dân gian ở đối tượng châm biếm và nghệ thuật châm biếm.
Đối tượng châm biếm của những câu hát châm biếm và truyện cười dân gian là những thói hư tật xấu của các hạng người và sự việc mâu thuẫn, đáng cười trong xã hội.
Cả truyện cười dân gian và những câu hát châm biếm đều sử dụng các thủ pháp nghệ thuật giống nhau như các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược, thủ pháp phóng đại,...

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Hồng Quyên

225 chủ đề

2179 bài viết

0