Bài soạn "Lao xao" số 4 - 6 Bài soạn "Lao xao" của Duy Khán lớp 6 hay nhất
Tìm hiểu tác giả, tác phẩm 1. Tác giả - Nguyễn Duy Khán (1934-1993) quê ở thôn Sơn Trung, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. - Là một văn thi sĩ người Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. - Thời niên thiếu, ông từng được đi học trong vùng Pháp kiểm soát, nhưng do ...
Tìm hiểu tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Nguyễn Duy Khán (1934-1993) quê ở thôn Sơn Trung, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Là một văn thi sĩ người Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
- Thời niên thiếu, ông từng được đi học trong vùng Pháp kiểm soát, nhưng do ảnh hưởng của 2 người anh trai là Nguyễn Đình Thư và Nguyễn Đình Thả, năm 15 tuổi, ông bỏ dở việc học trốn ra vùng Việt Minh kiểm soát để nhập ngũ.
- Do có nền tảng học vấn tốt, ông được đơn vị phân công dạy học, rồi làm phóng viên chiến trường cho chương trình Phát thanh Quân đội.
- Năm 1972, ông về công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, làm biên tập viên, từng có thời gian khá dài công tác ở quần đảo Trường Sa.
- Năm 1987, ông được trao tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam cho tác phẩm hồi kí Tuổi thơ im lặng (1986).
- Năm 2012, ông được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật.
- Các tác phẩm tiêu biểu: Trận Mới (1972), Một tiếng Xa Ma Khi (1981), Tâm sự người đi (1984), Tuổi thơ im lặng (1986).
2. Tác phẩm
- Tuổi thơ im lặng xuất bản năm 1986 là tác phẩm nổi tiếng nhất của Duy Khán, được xem là bước ngoặt lớn trong sự nghiệp cầm bút của ông.
- Tác phẩm đã được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1987.
- Hồi ký tập hợp gồm nhiều chương nhỏ trải dài từ lúc tác giả bắt đầu biết nhận thức cho đến khi gia nhập quân đội năm 15 tuổi. Mỗi chương là những ký ức sinh động về làng quê Bắc Ninh, từ thiên nhiên, phong tục, lễ hội đến mảnh đời những con người có số phận éo le, con vật nuôi, qua con mắt trẻ thơ, không định kiến của cậu bé Khán.
- Thông qua hồi tưởng và kỉ niệm tuổi thơ, tác giả dựng lại những nét chấm phá về cuộc sống ở làng quê thuở trước trong những bức tranh thiên nhiên, sinh hoạt, đồ vật và hình ảnh con người. Cuộc sống ấy tuy nghèo khó, vất vả nhưng giàu sức sống bền bỉ và chứa đựng bản sắc văn hoá độc đáo của làng quê.
- Bố cục: 2 phần
+ Phần 1: (Từ đầu đến "lặng lẽ bay đi"): Phong cảnh làng quê vào lúc chớm hè.
+ Phần 2: (Còn lại): Thế giới các loài chim.
3. Tóm tắt văn bản Lao xao
Trời chớm vào hè, cây cối um tùm, tỏa ngát hương hoa, ong bướm nhộn nhịp bay nhảy. Thế giới của các loài chim ở đồng quê hiện lên sinh động với đa dạng các loài chim. Chim Bồ các thì to mồm, chị Điệp nhanh nhảu. Rồi cả sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chú chim nhạn hiền lành, gần gũi với con người. Bìm bịp thì lại suốt ngày rúc trong bụi cây, chim diều hâu hung ác đuổi bắt gà con, quạ lia lia láu láu dòm chuồng lợn, chim chèo bẻo kẻ cắp nhưng hung hăng, thích đánh nhau, đánh cả diều hâu lẫn quạ. Rồi có cả chim cắt hung dữ đến mức không một loài chim nào trị được thế mà bị chèo bẻo đánh cho ngắc ngoải.
Đọc - hiểu văn bản
1 - Trang 113 SGK
Bài văn tả và kể về các loài chim ở làng quê có theo một trình tự nào không, hay hoàn toàn tự do? Để trả lời câu hỏi này, em hãy:
a) Thống kê theo trình tự tên của các loài chim được nói đến.
b) Tìm xem các loài chim có được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau hay không?
c) Tìm hiểu cách dẫn dắt lời kể, cách tả, cách xâu chuỗi hình ảnh, chi tiết.
Trả lời:
a) Trình tự kể tả các loài chim được nói đến:
– Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú
– Chim ngói, nhạn, bìm bịp
– Diều hâu, chèo bẻo, quạ đen, quạ khoang, cắt.
b) Trong bài, tác giả nhắc tới rất nhiều loài chim ở làng quê song không phải tả một cách ngẫu nhiên hay lộn xộn. Việc lựa chọn sắp xếp thứ tự tả có trình tự rõ rệt theo từng nhóm gần nhau:
+ Lý giải việc các loài chim có họ với nhau.
+ Tiếp đó là chim ngói, nhạn, bìm bịp giống bước trung gian.
+ Sau cùng là những loài chim ác.
c) Cách dẫn dắt truyện tự nhiên, từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em đến chuyện các loài chim.
+ Mở đầu bằng tiếng kêu của bồ các để dẫn dắt lời kể, tiếp đó vận dụng cấu trúc đồng dao dân ca để phát triển mạch kể theo cấu trúc dân ca đồng dao để phát triển mạch kể.
2 - Trang 113 SGK
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các loài chim. Cụ thể là:
a) Chúng được miêu tả về những phương diện nào và mỗi loài được miêu tả kĩ điểm gì? (hình dạng, màu sắc, tiếng kêu hoặc hót, hoạt động và đặc tính).
b) Kết hợp tả và kể như thế nào? Tìm những dẫn chứng cho thấy các loài chim được tả trong môi trường sinh sống, hoạt động của chúng và trong mối quan hệ giữa các loài.
c) Nhận xét về tài quan sát và tình cảm của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua việc miêu tả các loài chim.
Trả lời:
a) Tác giả tập trung vào những yếu tố nổi trội riêng của từng loài (tiếng kêu, cách bay, thói quen, hình dáng…) tạo nên sự phong phú, đa dạng.
– Chim bồ các kêu “váng” lên
– Cậu sáo sậu, sáo đen đậu lên cả lưng trâu mà hót mừng được mùa.
– Chim ngói sạt qua.
– Nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc, chéc”
– Bìm bịp “suốt đêm ngày rúc rích trong bụi cây.
– Diều hâu bay cao, mũi khoằm, đánh hơi tinh.
– Chèo bẻo “những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đâu tới tấp bay đến.
– Qụa lia lia láu láu…
→ Loài chim hiền được miêu tả bằng tiếng kêu và tiếng hót, loài trung gian được qua miêu tả màu sắc và tiếng kêu, loài chim ác qua miêu tả hoạt động bắt mồi và cách sinh tồn.
b) Tác giả kết hợp giữa tả và kể khá nhuần nhuyễn, tuần tự.
– Sự kết hợp giữa kể, tả trong mối quan hệ đấu tranh sinh tồn giữa các loài:
+ Việc tranh cướp mồi giữa diều hâu và chèo bẻo.
+ Tranh mồi giữa chèo bẻo và chim cắt.
c) Tác giả kết hợp kể, tả về các loài chim, tác giả vừa thể hiện khả năng quan sát tinh tế , vừa thay đổi được giọng văn mềm mại uyển chuyển.
– Thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, nhấn mạnh vào đặc điểm riêng biệt của loài chim như một xã hội loài người có hiền, dữ, mâu thuẫn được giải quyết bằng bạo lực…
→ Tình cảm, sự gắn bó mật thiết giữa tác giả với thiên nhiên.
3 - Trang 113 SGK
Trong bài có sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân gian như thành ngữ, đồng dao, kể chuyện. Hãy tìm các dẫn chứng.
Cách cảm nhận đậm chất dân gian về các loài chim trong bài tạo nên nét đặc sắc gì và có điều gì chưa xác đáng?
Trả lời:
Trong bài văn tác giả sử dụng một số chất liệu văn hóa dân gian:
– Bồ các là bác chim ri, chim ri là rì sáo sậu… tu hú là chú bồ các
– Dây mơ, rễ má
– Kẻ cắp gặp bà già
– Sự tích chim bìm bịp
=> Cách sử dụng chất liệu dân gian nói trên làm cho mạch văn phát triển tự nhiên, lời kể gần gũi mà sinh động với con người. Tuy nhiên cách nhận định, đánh giá trên mang tính định kiến, gán ghép khiên cưỡng.
4 - Trang 113 SGK
Bài văn đã cho em những hiểu biết gì mới và những tình cảm như thế nào về thiên nhiên, làng quê qua hình ảnh các loài chim?
Trả lời:
– Bài văn đem đến những thông tin thú vị về các loài chim, từ tập tính, hình dáng cho tới thói quen bắt mồi…
– Giúp ta thêm hiểu, trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương.
Soạn bài Lao xao phần Luyện tập
Câu hỏi: Em hãy quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.
Gợi ý:
Các em cần triển khái các ý sau:
– Loài chim mà em định miêu tả là gì?
– Nó có nhiều ở quê em không? Nó thường xuất hiện vào mùa nào?
– Miêu tả vẻ bên ngoài của loài chim ấy.
– Thói quen của loài chim ấy là gì?
– Sự xuất hiện của loài chim đó gợi cho em sự thích thú ra sao?
Tham khảo bài văn miêu tả Chim hoạ mi
Chiều nào cũng vậy, con hoạ mi ấy không biết từ phương nào bay đến đậu trong bụi tầm xuân ở vườn nhà tôi mà hót.
Hình như suốt một ngày hôm đó, nó vui mừng vì đã được tha hồ rong ruổi bay chơi trong khắp trời mây gió, uống bao nhiêu nước suối mát trong khe núi, nếm bao nhiêu thứ quả ngon ngọt nhất ở rừng xanh. Cho nên những buổi chiều tiếng hót có khi êm đềm, có khi rộn rã, như một điệu đàn ai bấm trong bóng xế, mà âm thanh vang mãi trong tĩnh mịch, tưởng như làm rung động lớp sương lạnh mờ mờ rù xuống cỏ cây.
Hót một lúc lâu, nhạc sĩ giang hồ không tên không tuổi ấy từ từ nhắm hai mắt lại thu đầu vào lông cổ im lặng ngủ, ngủ say sưa, sau một cuộc viễn du trong bóng đêm dày.
Rồi hôm sau, khi phương Đông vừa vẩn bụi hồng, con hoạ mi ấy lại hót vang lừng, chào sáng sớm. Nó kéo dài cổ ra mà hót, tựa hồ nó muốn các bạn xa gần đâu đó lắng nghe. Hót xong, nó xù lông rũ hết những giọt sương rồi nhanh nhẹn chuyển bụi nọ bụi kia, tìm vài con sâu, ăn lót dạ, đoạn vỗ cánh bay vút về phương Đông.
(Sưu tầm)
Ghi nhớ
Qua sự quan sát tinh tường cùng vốn hiểu biết phong phú kết hợp với tình cảm mến yêu với cảnh sắc quê hương, tác giả đã vẽ nên bức tranh quê hương vô cùng sinh động và nhiều màu sắc thông qua thế giới loài chim ở đồng quê.