Bài soạn "Đây thôn Vĩ Dạ" số 5 - 6 Bài soạn "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử lớp 11 hay nhất
I. TÁC GIẢ Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, quê ở Quảng Bình, xuất thân trong một gia đình Công giáo nghèo, cha mất sớm, mới 16 tuổi đã làm thơ. Ông có học ở Huế, sống nhiều ở Quy Nhơn, sau làm viên chức, rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936, Hàn Mặc Tử bị mắc ...
I. TÁC GIẢ
Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, quê ở Quảng Bình, xuất thân trong một gia đình Công giáo nghèo, cha mất sớm, mới 16 tuổi đã làm thơ. Ông có học ở Huế, sống nhiều ở Quy Nhơn, sau làm viên chức, rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936, Hàn Mặc Tử bị mắc bệnh phong. Căn bệnh hiểm nghèo này đã đày đọa về thể xác lẫn tinh thần nhà thơ suốt ba năm, cho tới khi ông mất.
Chỉ với mười năm cầm bút, Hàn Mặc Tử đã đóng góp cho đời nhiều tập thơ và kịch thơ.
Sách Văn 11 nhận định Hàn Mặc Tử có một “hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và thể xác”.
Đúng là thế giới thơ của ông được hình thành bởi hai mảng thơ:
- Một là các bài thơ bình dị, trong trẻo sản phẩm của một tâm hồn yêu quê hương, yêu sự sống của con người và tạo vật. Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín, Tình quê... nằm trong nguồn mạch này với cảm xúc trong sáng, dịu buồn làm rung động lòng người và có sức gợi cảm khá sâu sắc.
- Hai là các bài thơ điên loạn rùng rợn, huyền bí biểu lộ một nỗi đau thương thất vọng, những cơn giày vò và đau đớn của nhà thơ do bệnh tật.
II. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA BÀI THƠ
Trong thời kì làm nhân viên Sở Đạc điền ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có quen biết một thiếu nữ tên là Hoàng Cúc, quê ở Huế. Sau đó, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo để kiếm sống. Đến khi trở lại Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử biết mình mắc bệnh thì Hoàng Cúc đã cùng gia đình về sống ở thôn Vĩ Dạ, Huế. Bỗng một hôm, Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu thiếp in phong cảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống mặt nước với lời thăm hỏi sức khỏe nhà thơ mà không kí tên.
Chính bức bưu ảnh này và những dòng chữ của Hoàng Cúc đã khơi nguồn cảm hứng cho Hàn Mặc Tử viết bài Đây thôn Vĩ Dạ.
Nhà thơ đã gửi thư hồi âm Hoàng Cúc kèm theo bài thơ trên với câu: “Có nhận được bức ảnh bến Vĩ Dạ lúc hừng đông hay là một đêm trăng?”.
Cần lưu ý là Hàn Mặc Tử viết bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khi đã biết mình bị bệnh nan y. Bài thơ này trích từ tập thơ Đau thương (Thơ điền).
III. CHỦ ĐỀ
Bài thơ là những bức tranh kỉ niệm đẹp và thơ mộng về thôn Vĩ Dạ hàm ẩn một mối tình kín đáo, sáng trong và ý nhị.
IV. PHÂN TÍCH
Đây thôn Vĩ Dạ gồm 3 khổ thơ thất ngôn. Mới đọc tưởng như đó là 3 bài thơ tứ tuyệt hoàn toàn độc lập chẳng chút quan hệ gì với nhau. Nhưng thật ra không phải thế. Ba khổ thơ ấy liên thông chặt chẽ với nhau bởi cái mạch ngầm cảm xúc của nhà thơ.
Ba khổ thơ vẽ lên ba bức tranh:
1. Khổ 1: Cảnh vườn cây trong nắng mai:
Mở đầu là một câu hỏi:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi bằng thơ thật tự nhiên như câu nói, một lời trách cứ, nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng cũng là một lời mời gọi da diết, ẩn chứa một tình cảm đằm thắm, dịu dàng, có chút ngạc nhiên mà cũng có một chút gì tiếc nuối. Câu hỏi đó của cô gái thôn Vĩ hay của chính nhà thơ. Dù là của ai thì câu hỏi ấy cũng đã khơi gợi làm sống dậy những kỉ niệm với những đường nét của cảnh vườn cây thôn Vĩ trong nắng mai:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Trước ánh nắng ban mai “nắng mới lên”, cảnh vật thôn Vĩ Dạ bừng sáng lên thật đẹp. Chỉ là đôi nét chấm phá chọn lọc từ hồi ức của nhà thơ mà thanh tân, đặc sắc và đầy ấn tượng đến thế! Từ cảnh hàng cau thẳng đứng, vươn lên lấp loáng nắng mai đến cảnh vườn cây lá mướt xanh như ngọc, một màu xanh mơn mởn, tinh khôi ngỡ như trong suốt. Khung cảnh tuyệt vời ấy làm nền để thấp thoáng hiện ra sau lá trúc một hình ảnh dịu dàng, phúc hậu của khuôn mặt người vuông chữ điền nửa hư nửa thực. Chữ ai đại từ phiếm chỉ được sử dụng trong câu 3 nghe vừa thân mến, vừa xa vắng, bâng quơ vừa mang vẻ kín đáo lại vừa hàm ẩn được tình ý riêng của tác giả. Hai câu thơ sau làm nên một vẻ đẹp mơ hồ hư ảo, như có, như không, khi ẩn, khi hiện, một nét duyên e ấp nên thơ trong khu vườn cổ kính của cô gái Huế.
2. Khổ 2: Cảnh sông Hương:
Bốn câu thơ khổ này tiếp tục dòng hồi ức của nhà thơ. Cảnh sông Hương xuất hiện với gió, với mây, với hoa bắp lay và dòng nước buồn thiu:
Gió theo lối gió, mây đường mây.
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Làn gió ở đây thổi rất nhẹ không đủ sức để cuốn mây trôi, không đủ sức để làm cho nước gợn, bởi thế dòng nước lặng lờ như không buồn chảy. Nhưng gió cũng chỉ đủ để khiến hoa bắp vật vờ lay động gợn một nỗi buồn hiu hắt. Cảnh vật êm đềm, không gian vắng lặng mơ buồn... vẫn là những gió, trăng, mây, nước, thông thường thì gió cuốn mây bay chuyển đi cùng một hướng, nhưng ở đây, tất cả đều rời rã, chia đường: “Gió theo lối gió - mây đường mây”. Cách cảm nhận cảnh vật như thế như thể hiện được một nỗi buồn chất chứa trong tâm hồn thi nhân. Phải chăng đó là một nỗi buồn ngăn cách của một mối tình vô vọng đơn phương.
Trong khung cảnh tĩnh lặng vừa nói, hình ảnh một con thuyền đầy trăng cũng đủ tạo nên đôi bờ thực hư huyền ảo của bến sông trăng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cái không gian bát ngát trăng là cõi mộng. Trong thế giới ấy, sông trở thành sông trăng, ở đó thuyền “chở trăng về” như chở một du khách trên dòng sông Hương thơ mộng - Hai câu thơ là một câu hỏi bất chợt vọng lên. Bộc lộ một nỗi ước mong tha thiết bàng bạc chút gì lo sợ hoài nghi. Phải chăng trong khoảnh khắc tưởng nhớ mơ màng, Hàn Mặc Tử tha thiết muốn gặp lại vầng trăng tri kỉ độ nào? Gặp lại vầng trăng hay gặp lại người cũ mà niềm hi vọng lại quá mong manh và nỗi ước mong lại càng tha thiết đến như thế: "Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Khổ 3: Người cũ nơi thôn Vĩ:
Đến đây, thi nhân như lặng đi trong cảnh mộng và như đang đối thoại người cũ trong mơ thiết tha và gấp gáp:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Hình ảnh người cũ mờ ảo vì là “khách đường xa” và “nhìn không ra” nhưng hoàn toàn là có thực với cảm nhận của thi nhân: “áo em trắng quá”. Hai câu thơ hướng tới người đang xa cách mà mình nặng lòng khao khát nhớ mong. Cái màu áo trắng trinh nguyên tinh khiết tuy làm người ấy thêm trang trọng nhưng cũng càng trở nên xa cách hơn. Hai câu cuối, nhà thơ trở lại với chính bản thân mình, với một mối tình đơn phương nhuốm đầy màu sắc đau thương tuyệt vọng:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hai câu thơ lại lửng lơ khó hiểu. Ở đây là ở đâu: Tình ai là tình anh hay tình em? “Em” thì xa vời quá. Sương khói đã che khuất bóng người (sương khói mờ nhân ảnh). Còn “anh” thì đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo. Một bên là cõi sống non tơ và tình thơ hé mở. Một bên là nỗi cô đơn, bệnh tật với cõi hư vô đang ám ảnh giày vò. Trong tình huống ấy, câu thơ cuối không chỉ là một câu hỏi không lời đáp mà còn là tiếng kêu tuyệt vọng đớn đau. “Ai biết tình ai có đậm đà?” Hai phiếm chỉ đại từ “ai” cùng tô đậm thêm tính đa nghĩa cho câu thơ và nhất là đã khơi gợi lên một nỗi niềm u ẩn, mênh mang và sâu lắng trong lòng thi nhân. Câu thơ như thể để trả lời cho câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” ở đầu bài. Phải chăng?
GỢI Ý THÊM
Câu 1. Những kỉ niệm đẹp, thơ mộng về thôn Vĩ Dạ, về Huế được diễn tả qua tâm hồn thơ mộng và giàu tưởng tượng của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
- Cảnh thôn Vĩ lúc hừng đông: cái ánh “nắng mới lên” tinh khôi trong trẻo chiếu sáng lấp loáng những hàng cau còn ướt đẫm sương đêm. Vườn cây tươi tốt, sum suê, màu lá mướt “xanh như ngọc” sinh động hẳn lên khi thấp thoáng sau lá trúc một khuôn mặt người vuông vức chữ điền phúc hậu.
- Cảnh sông Hương có mây gió chia lìa đôi ngả, có “hoa bắp lay” và “dòng nước buồn thiu...” gợi một nỗi sầu hiu hắt. Đặc biệt là có ánh trăng huyền ảo tràn ngập đất trời: một dòng sông trăng, một bến đò trăng và một con thuyền đầy trăng... như là trong mộng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
- Vẻ đẹp tinh khiết của cô gái Huế, hình ảnh khách đường xa, một đối tượng trong mơ, đầy hư ảo: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Hình ảnh cô gái Vĩ Dạ ngày xưa với màu áo trắng quá như lẫn vào sương khói. Sương khói ở đây là sương khói của đất trời xứ Huế mộng mơ hay là sương khói của thời gian mờ xa và không gian vời vợi vây phủ lên một mối tình cũng xa xăm vô vọng.
Câu 2. Có một mối tình được gửi gắm trong bài thơ
Thấp thoáng trong Đây thôn Vĩ Dạ là một mốì tình kín đáo, trắng trong, sâu sắc và ý nhị (phải chăng là mối tình của thi sĩ với Hoàng Cúc?)
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Như mọi mối tình cao đẹp khác, mối tình này cũng chứa chan biết bao là nhớ nhung, vọng tưởng:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Một mối tình đầy khắc khoải âu lo và trách móc
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Những hình ảnh, những cầu thơ hấp dẫn trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên?
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Ba câu thơ làm nên một hình ảnh mảnh vườn thôn Vĩ tinh khôi, thanh khiết, bình dị mà cao sang, với cây cối tốt tươi, cành lá non tơ mướt xanh như ngọc bích. Thấp thoáng đằng sau những khóm trúc, với những “lá trúc che ngang” là một khuôn mặt chữ điền phúc hậu. Ấy là một người thôn Vĩ hay khuôn mặt người trở về thôn Vĩ. Tất cả có thể là hình ảnh thực mà cũng có thể là một hình ảnh hư ảo đầy tưởng tượng của thi sĩ.
- Thuyền ai đậu bến sông trăng dó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hai câu thơ tả dòng Hương Giang với nét đẹp lung linh huyền ảo. Sông trăng, thuyền chở trăng là cách nói mới mẻ đầy tài hoa của thi sĩ, miêu tả vẻ thơ mộng của đôi bờ thực hư sông nước bát ngát ánh trăng.
- Áo em trắng quá nhìn không ra.
“Nhìn không ra” là cụm từ cực tả sắc trắng của áo em. Áo em trắng kì lạ, trắng đến bất ngờ. Sắc trắng của áo người khách đường xa là vẻ đẹp tinh khiết đậm nét nhất rạng rỡ nhất trong bài thơ mà cũng gây tuyệt vọng nhất cho thi sĩ. Phải chăng?
Nhìn chung, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là một bài thơ toàn bích. Trong bài thơ toàn bích ấy, những hình ảnh, những câu thơ trên là nổi bật và gây ấn tượng mãnh liệt nhất.