Bài soạn "Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới" số 2 - 6 Bài soạn "Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới" của Vũ Khoan lớp 9 hay nhất
Kiến thức cơ bản 1. Người Việt Nam chúng ta có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đó là lòng yêu nước, là đức tính cần cù, dũng cảm, là tinh thần "lá lành đùm lá rách", "thương người như thể thương thân"... Đó là những phẩm chất không ai có thể phủ nhận bởi chúng đã được kiểm nghiệm và ...
Kiến thức cơ bản
1. Người Việt Nam chúng ta có nhiều phẩm chất tốt đẹp, đó là lòng yêu nước, là đức tính cần cù, dũng cảm, là tinh thần "lá lành đùm lá rách", "thương người như thể thương thân"... Đó là những phẩm chất không ai có thể phủ nhận bởi chúng đã được kiểm nghiệm và khẳng định trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, không ai có thể toàn vẹn, cùng với những phẩm chất cần luôn được phát huy, người Việt Nam chúng ta vẫn có những mặt hạn chế phải sửa đổi. Nhận thức được những mặt mạnh để phát huy, đồng thời cũng nhận thức được những mặt còn yếu kém cần khắc phục là điều hết sức cần thiết để mỗi con người nói riêng và cộng đồng Việt Nam nói chung vươn lên tự hoàn thiện mình, không ngừng tiến bộ để đáp ứng những yêu cầu mới của lịch sử đất nước.
2. Bài viết của Phó Thủ tướng Vũ Khoan trong dịp mở đầu thế kỉ mới đã nêu ra một cách chính xác và kịp thời những vấn đề thiết thực đối với con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, lực lượng quyết định sự thành công của công cuộc xây dựng đất nước trong thế kỉ mới.
3. Bố cục bài Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
– Phần 1: từ đầu… sâu rộng hơn nhiều: Nêu ra nguyên nhân cần chuẩn bị hành trang và vai trò của con người trong thiên niên kỉ mới
– Phần 2: tiếp theo…. kinh doanh và hội nhập: Những điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam.
– Phần 3: đoạn còn lại: Khẳng định vai trò của việc chuẩn bị hành trang đối với thế hệ trẻ.
Đọc - hiểu văn bản
Câu 1 - Trang 30 SGK
Tác giả viết bài này trong thời điểm nào của lịch sử? Bài viết đã nêu vấn đề gì? Ý nghĩa thời sự và ý nghĩa lâu dài của vấn đề ấy.
Những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức to lớn và cấp bách đang đặt ra cho đất nước ta, cho thế hệ trẻ hiện nay là gì?
Trả lời
- Thời điểm ra đời của bài viết: Năm 2001 là thời điểm chuyển tiếp từ thế kỉ XX sang thế kỉ XXI, mang ý nghĩa đặc biệt vì là năm chuyển giao giữa hai thế kỉ, trước giữa hai thiên niên kỷ. Công cuộc đổi mới ở nước ta vào cuối thế kỉ trước đã đạt được một số thành quả vững chắc.
- Bài viết nêu vấn đề: Bước sang thế kỷ mới, dân tộc ta đứng trước những yêu cầu và nhiệm vụ to lớn là đưa đất nước đi vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vượt qua tình trạng chậm phát triển, nghèo nàn, lạc hậu để trở thành một nước công nghiệp vào thời điểm năm 2020. Đặc biệt đối với thế hệ trẻ, chính họ là lực lượng quyết định cho công cuộc xây dựng đất nước ở thế kỉ mới. → Tính thời sự nóng hổi, có ý nghĩa lâu dài với sự phát triển hội nhập của đất nước.
- Nhiệm vụ của thế hệ trẻ: nhìn nhận những hạn chế cần khắc phục để không bị tụt hậu và bắt kịp bước đi của thời đại. Đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận nền kinh tế tri thức.
Câu 2 - Trang 30 SGK
Hãy đọc lại cả bài và lập dàn ý theo trình tự lập luận của tác giả.
Trả lời
a) Mở bài
- Để bước vào thế kỉ mới, lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra cái mạnh, cái yếu của mình, để rèn luyện những thói quen tốt, thích ứng với đà phát triển của thế giới.
b) Thân bài
- Tết Tân Tị là thời gian chuyển tiếp của hai thế kỉ và hai thiên niên kỉ.
- Con người là động lực phát triển của lịch sử, không gì bằng ta hãy chuẩn bị hành trang cho con người.
- Thế giới đang phát triển nhanh chóng về khoa học công nghệ thông tin, chúng ta cần thật nhiều nỗ lực mới hội nhập được vào nền kinh tế và văn hoá thế giới. Người Việt chúng ta có mặt mạnh, mặt yếu. Cần phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu mới hội nhập được vào nền kinh tế thế giới.
- Muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới phải giải quyết 3 nhiệm vụ:
Thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu của nền kinh tế cũ.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Cần phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của người Việt Nam.
- Cái mạnh của người Việt ta là thông minh, nhạy bén với cái mới.
- Điểm yếu của chúng ta là những lỗ hổng về kiến thức do lối học vẹt, học chay
- Tuy có cần cù nhưng chúng ta thiếu tỉ mỉ. Trong lúc ấy người Nhật cũng cần cù nhưng còn biết tính toán cẩn trọng. Chúng ta thiếu lo xa, “nước đến chân mới nhảy”.
- Ảnh hưởng phong cách làm ăn cũ, chúng ta thiếu khẩn trương, thiếu tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc...
- Chúng ta cần tăng cường đoàn kết, bỏ thói đố kị, nhỏ nhen, khôn vặt, không coi trọng chữ tín trong thời đại in - tơ - nét toàn cầu như ngày nay.
c) Kết bài
- Mỗi người cần cố gắng rèn điểm mạnh, bỏ điểm yếu nếu muốn “sánh vai cùng các cường quốc năm châu".
Câu 3 - Trang 30 SGK
Trong bài này, tác giả cho rằng: "Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất". Điều đó đúng không, vì sao?
Trả lời
- Để chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới, việc chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất. Đây là luận cứ quan trọng mở đầu, có ý nghĩa đặt vấn đề.
- Mở ra hướng lập luận cho toàn bài.
- Những lí lẽ xác minh cho luận cứ này:
• Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử.
• Trong thế kỉ mà nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò con người lại càng nổi trội.
Câu 4 - Trang 30 SGK
Tác giả đã nêu ra và phân tích những điểm mạnh, điểm yếu nào trong tính cách, thói quen của người Việt Nam qua? Những điểm mạnh, điểm yếu ấy có quan hệ như thế nào với nhiệm vụ đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại ngày nay?
Trả lời
a) Những điểm mạnh, điểm yếu của ta:
- Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành, sức sáng tạo bị hạn chế do lối học nặng về lí thuyết.
- Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu tính tỉ mỉ, chưa có thói quen coi trọng nghiệm ngặt quy trình công nghệ, chưa quen với cường độ khẩn trương.
- Đoàn kết, đùm bọc nhất là trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm nhưng lại thường đố kị trong việc làm ăn, trong lối sống.
- Thích ứng nhanh giúp ta tận dụng cơ hội ứng phó với thách thức, đối với tiến trình hội nhập nhưng kì thị kinh doanh, quen bao cấp, khôn vặt, không coi trọng chữ tín trong kinh doanh.
b) Những điểm mạnh, điểm yếu nêu trên có quan hệ đến nhiệm vụ đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời đại ngày nay. Nhận thức được điều đó, chúng ta có thể lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu.
Lớp trẻ là những người làm chủ đất nước trong thế kỉ XXI phải nhận thức điều đó đã hình thành những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.
Câu 5 - Trang 30 SGK
Em đã học và đọc nhiều tác phẩm văn học và những bài học lịch sử nói về các phẩm chất truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Những nhận xét của tác giả có gì giống và có điểm gì khác với những điều mà em đã đọc được trong cách sách vở nói trên? Thái độ của tác giả như thế nào khi nêu những nhận xét này?
Trả lời
- Trước đây, ta thường thiên về khẳng định những ưu điểm của các phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, của con người Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn những chỗ mạnh mà bỏ qua những chỗ yếu kém sẽ dễ ngộ nhận, tự đề cao quá mức, có tâm lí tự mãn. Tâm lí này cản trở sự vươn lên phát triển đất nước.
- Thái độ của tác giả là biết nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, toàn diện, khẳng định và trân trọng những phẩm chất tốt đẹp, đồng thời thẳng thắn nêu lên những mặt yếu kém, không tự tôn hoặc tự ti dân tộc.
Câu 6 - Trang 30 SGK
Trong văn bản, tác giả sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ. Hãy tìm những thành ngữ, tục ngữ ấy và cho biết ý nghĩa, tác dụng của chúng.
Trả lời
- Thành ngữ, tục ngữ được sử dụng
• Nước đến chân mới nhảy.
• Liệu cơm gắp mắm.
• Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
• Trâu buộc ghét trâu ăn.
• Bóc ngắn cắn dài.
- Đề cập đến những vấn đề vừa có ý nghĩa thời sự cấp thiết vừa có ý nghĩa lâu dài, tác giả vẫn không dùng cách nói theo kiểu sách vở, uyên bác, mà bằng cách diễn đạt giản dị, thiết thực, dựa trên cơ sở thực tiễn, ai cũng có thể cảm nhận được, lại cảm nhận sâu sắc. Những thành ngữ, tục ngữ được sử dụng trong bài đã góp phần thể hiện cách nói trên.