Bà mẹ Việt Nam anh hùng
0 là danh hiệu vinh dự mà nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và ...
là danh hiệu vinh dự mà nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Danh hiệu này được ban hành theo pháp lệnh ngày 29 tháng 8 năm 1994 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiêu chuẩn đạt danh hiệu "" (kể cả là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam) dành cho những phụ nữ đạt một trong những tiêu chuẩn sau:
Có hai con là liệt sĩ và có chồng hoặc bản thân là liệt sĩ;
Có hai con mà cả hai con là liệt sĩ, hoặc chỉ có một con mà người đó là liệt sĩ;
Có ba con trở lên là liệt sĩ;
Có một con là liệt sĩ, chồng và bản thân là liệt sĩ.
Danh hiệu do chủ tịch nước kí tặng hoặc truy tặng theo đề nghị của chính phủ. Người được tặng (truy tặng) được cấp bằng và huy chương .
Từ tháng 12 năm 1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”:
Cả nước: 44.253 người[1]
Miền Bắc: 15.033 người
Miền Nam: 29.220 người
Trong đó:
có một con độc nhất hy sinh: 9.903 người
có 2 con mà 2 con đều hy sinh: 1.535 người
có 3 con hy sinh: 10.067 người
có 4 con hy sinh: 1.535 người
có 5 con hy sinh: 258 người
Một số bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu[2]:
Nguyễn Thị Thứ: quê quán thôn Thanh Quýt - Điện Thắng - Điện Bàn - Quảng Nam, có 9 con và 1 con rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ
Phạm Thị Ngư: quê quán Hàm Hiệp - Hàm Thuận - Bình Thuận, có 8 con là liệt sĩ, bản thân bà là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Trần Thị Mít: quê quán Hải Phú - Hải Lǎng - Quảng Trị, có 9 con là liệt sĩ
Nguyễn Thị Rành: ấp Trúc Đèn, xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, có 8 con là liệt sĩ, bản thân bà là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Lê Thị Tự: quê quán Thanh Quýt - Điện Thắng - Điện Bàn - Quảng Nam Đà Nẵng, có 9 con là liệt sĩ (bà có 12 con)
Phạm Thị Khánh: quê quán Hòn Đất - Kiên Giang, có 7 con trai là liệt sĩ (bà có 8 con)
Vǎn Thị Thừa: quê quán Duy Xuyên - Quảng Nam Đà Nẵng có chồng và 4 con là liệt sĩ, bản thân bà là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Mẹ là Hồ Thị Hạnh và con gái là Trần Thị Thêu: quê quán Ấp Hưng Hoà - Phiến Cầu - Trà Vinh; trong gia đình có 10 người con là liệt sĩ
Hai chị em Nguyễn Thị Dương, Nguyễn Thị Lạnh, nơi ở 12A Lý Nam Đế và 7/30 Lý Nam Đế - Hà Nội; bà Dương có 8 con thì 5 con là liệt sĩ, bà Lạnh có một con duy nhất là liệt sĩ
Ba chị em ruột Bùi Thị Hai, Bùi Thị Dị, Bùi Thị Sáu ở Hàm Chính - Hàm Thuận - Bình Thuận. Bà Hai có chồng và 4 con là liệt sĩ; bà Dị có 3 con là liệt sĩ; bà Sáu có 4 con là liệt sĩ.
Lê Thị Cháu (tên thật là Lê Thị Lý), dân làng quen gọi là ông bà Diêu Cháu quê ở làng Mai Xá (Gio Mai, Gio Linh, Quảng Trị), chính là người mẹ quặn lòng nuốt hận mang thúng đi lấy đầu con bị giặc Pháp chặt rồi bêu giữa chợ về khâm liệm, mai táng, được nhạc sĩ Phạm Duy ca ngợi trong ca khúc cách mạng "Bà mẹ Gio Linh"[3][4].