24/05/2018, 15:10

Vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập thông qua việc huy động, đi vay để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá ...

Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập thông qua việc huy động, đi vay để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.

Thực chất vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh, phân phối, tiêu dùng, mà người chủ sở hữu gửi vào ngân hàng với các mục đích khác nhau, họ chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập. Như vậy ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quả trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến việc tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của NHTM.

Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là“ tiền tệ’’ với đặc thù hoạt động kinh doanh là “đi vay để cho vay’’ nên nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng có vai trò hết sức quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh của mỗi ngân hàng. Vốn là yếu tố quyết định đến khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh cũng như khả năng phòng chống rủi ro của ngân hàng.

Vốn huy động quyết định đến quy mô hoạt động và quy mô tín dụng của ngân hàng

Cụ thể, nếu ngân hàng có nguồn vốn lớn, dồi dào thì chắc chắn ngân hàng sẽ có đủ khả năng để thực hiện đa dạng hoá sản phẩm của mình để đáp ứng tốt nhất nhu cầu dịch vụ của khách hàng. Đồng thời nguồn vốn lớn còn có thể giúp ngân hàng mở rộng mạng lưới chi nhánh, hiện đại hoá cơ sở vật chất,… Không những vậy, với tiềm năng vốn lớn các NHTM có thể hoàn toàn tự quyết định lấy cơ hội kinh doanh của mình, tự tạo ra một hình ảnh riêng cho ngân hàng, từ đó sẽ tạo ra đựơc sức hút đối với khách hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn lớn có thể cùng một lúc phục vụ nhiều nhu cầu vay vốn của các đối tượng khác nhau qua đó đem lại lợi nhuận và nâng cao hình ảnh cho ngân hàng, giúp ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô hoạt động và quy mô tín dụng của mình.

Vốn huy động quyết định đến khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của các ngân hàng trên thị trường

Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường uy tín là vấn đề mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải đặt lên hàng đầu đặc biệt đối với các NHTM thì nó lại càng là vấn đề sống còn. Một ngân hàng có uy tín tốt trên thị trường ngân hàng đó có thể dễ dàng huy động được nguồn tiền nhàn rỗi từ các cá nhân, tổ chức kinh tế…Nhưng để có được uy tín đó trước hết ngân hàng phải luôn có khả năng sẵn sàng chi trả các khoản tiền gửi cho khách hàng. Nguồn vốn lớn sẽ giúp ngân hàng có khả năng chống đỡ đối với việc rút tiền của dân lớn hơn vì dự trữ sơ cấp của họ lớn. Vốn lớn NHTM còn có thể quyết định dự trữ thứ cấp lớn tức là đầu tư vào các giấy tờ có giá có tính lỏng cao. Khi ngân hàng có nguồn vốn lớn thể hiện ngân hàng lớn nên khả năng đi vay chống đỡ rủi ro cũng dễ dàng hơn.

Vốn huy động ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường

Khi NHTM có nguồn vốn lớn có thể cạnh tranh và dành ưu thế so với các ngân hàng khác cả về giá và chất lượng dịch vụ. Cụ thể, khi ngân hàng có nguồn vốn lớn ngân hàng có thể đa dạng hoá các loại hình dịch vụ để đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng từ đó có thể thu hút khách hàng đến với ngân hàng vì họ có thể được hưởng nhiều dịch vụ hơn so với ngân hàng khác. Vốn lớn ngân hàng có thể đẩy lãi suất đầu vào cao cũng như giảm lãi suất cho vay so với các ngân hàng khác để thu hút khách hàng.

Các NHTM đều hiểu rằng kinh doanh trong cơ chế thị trường thì sức mạnh cạnh tranh mang ý nghĩa sống còn, vì vậy các ngân hàng luôn tìm mọi cách để năng cao khả năng này.

Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động thông qua các nghiệp vụ chủ yếu như: nghiệp vụ tiền gửi, nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá và các nghiệp vụ trung gian khác.Vốn huy động là nguồn vốn mà ngân hàng có thể chủ động tìm kiếm hoặc bị động trong việc tạo nguồn.

Vốn huy động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thường ở mức 70 – 80%, đây chính là nguồn chủ yếu đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng và cũng là nguồn mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng thông qua các công cụ tài chính với mức lãi suất khác nhau, thời hạn hoàn trả khác nhau để có thể huy động tới mức tối đa nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng. Các NHTM phải làm sao thu hút được nhiều tiền của người tiêu dùng và các doanh nghiệp dù ngân hàng phải trả lãi cho loại tiền gửi này song việc thu hút nhanh và biết sử dụng vẫn mang lại nguồn lợi lớn cho ngân hàng.

Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút vốn để chi trả trước hạn. Vì vậy ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó vào hoạt động kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng .

* Sự cần thiết của vốn huy động trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:

Như đã đề cập trong tổng nguồn vốn của một ngân hàng, vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần rất nhỏ, còn đại bộ phận là nguồn vốn huy động từ các đối tượng khác nhau. Phải có vốn huy động ngân hàng mới có thể hoạt động bình thường và phát triển bởi chức năng chủ yếu của nguồn vốn chủ sở hữu là bảo vệ an toàn và điều chỉnh hoạt động ngân hàng. Như vậy trong quá trình hoạt động kinh doanh các ngân hàng dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu để đưa ra các quyết định kinh tế cho phù hợp với các qui định của luật pháp. Còn nguồn vốn được sử dụng vào các hoạt động kinh doanh sinh lời của một ngân hàng chính là từ vốn huy động. Nguồn vốn huy động càng nhiều ngân hàng càng có khả năng cung ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng cũng như làm giàu cho ngân hàng. Như vậy chỉ với vốn huy động ngân hàng mới có thể làm tốt chức năng trung gian tín dụng- chức năng quyết định sự duy trì và phát triển của ngân hàng, đồng thời là cơ sở để thực hiện các chức năng còn lại.

* Ý nghĩa của vốn huy động trong hoạt động ngân hàng:

Trước hết cần khẳng địng rằng vốn huy động sẽ quyết định tới khả năng mở rộng qui mô và phạm vi kinh doanh, kết quả kinh doanh của NHTM. Một ngân hàng thành công trong công tác huy động vốn sẽ có tiềm lực tài chính để nâng cao khả năng cạnh tranh: mở thêm nhiều điểm giao dịch với khách hàng, nghiên cứu và đưa ra thị trường những sản phẩm mới bên cạnh những sản phẩm truyền thống…Nhờ vậy ngân hàng có thể thu hút thêm nhiều khách hàng. Điều này có tác động tích cực đến kết quả kinh doanh cuối kỳ của ngân hàng. Bên cạnh đó, vốn huy động cũng đẩm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. Nguồn vốn dồi dào giúp các ngân hàng lúc nào cũng có thể phục vụ nhu cầu thanh toán chi trả của khách hàng, khiến khách hàng yên tâm giao dịch, tin tưởng vào ngân hàng. Từ đó, uy tín của ngân hàng trên thị trường cũng được nâng cao, càng có điều kiện để mở rộng hoạt động và nâng cao vị thế.

Do nguồn vốn huy động là nguồn vốn cơ bản và quan trọng để ngân hàng dùng vào hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình nên để đảm bảo đủ vốn cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả đem lại nhiều lợi nhuận nhất các NHTM không ngừng mở rộng các hình thức huy động vốn nhưng về cơ bản các ngân hàng thường sử dụng huy động vốn qua tài khoản tiền gửi, huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá và huy động thông qua các khoản đi vay.

Huy động từ tài khoản tiền gửi

Tiền gửi của ngân hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau do đó cũng có nhiều loại tiền gửi khác nhau.

* Tài khoản tiền gửi không kỳ hạn :

Tiền gửi không kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu này của người gửi tiền. Đây là tiền của cá nhân, doanh nghiệp gửi vào ngân hàng với mục đích chính là để hưởng dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Trong phạm vi số dư cho phép các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp , cá nhân đều được ngân hàng thực hiện và các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện nhập vào tài khoản thanh toán theo yêu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Do vậy nó là nguồn vốn biến động nhiều nhất mà ngân hàng khó có thể dự đoán về quy mô tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng có thể huy động được, đồng thời kỳ hạn tiềm năng của loại loại tiền này cũng là ngắn nhất .

* Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn:

Tiền gửi có kỳ hạn là những giá trị tiền tệ mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhưng có thoả thuận thời gian rút tiền và khách hàng không được phép rút tiền trước thời hạn. Mục đích chính của người gửi tiền là sinh lời và ngân hàng có thể chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn này vì tính thời hạn của nguồn vốn. Mức lãi suất cụ thể phụ thuộc vào thời hạn gửi tiền và sự thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng trên cơ sở xem xét mức độ an toàn của ngân hàng cũng như quan hệ cung cầu về vốn tại thời điểm đó. Tuy nhiên, để tạo tính lỏng cho các loại tiền gửi có kỳ hạn mà từ đó mà hấp dẫn khách hàng, ngân hàng có thể cho phép khách hàng rút tiền trước kỳ hạn, tuỳ theo chính sách của mỗi ngân hàng mà có hình thức trả lãi phù hợp.

* Tiền gửi tiết kiệm:

Tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi của các tầng lớp dân cư trong xã hội với mục đích tích luỹ và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm chia thành hai loại là tiết kiệm có kỳ hạn và tiết kiệm không kỳ hạn.

  • Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn :

Đây là khoản tiền nhàn rỗi mà người dân tạm thời gửi vào ngân hàng do không có kế hoạch chi tiêu cụ thể nên họ có thể rút tiền vào bất cứ thời điểm nào. Tuy nó là tiền gửi không kỳ hạn nhưng nó không phải là tiền gửi thanh toán nên người gửi tiền không được hưởng các tiện ích thanh toán. Nguồn vốn này cũng thường xuyên biến động nên ngân hàng cũng phải chủ động trong việc chi trả cho khách hàng. Do vậy lãi suất của loại tiền gửi này thường thấp.

  • Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:

Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, người gửi tiết kiệm có kỳ hạn chỉ được rút tiền khi đáo hạn. Mục đích gửi tiền của họ là an toàn và hưởng lãi vì khách hàng đã xác định trước và có kế hoạch chi tiêu cụ thể đối với khoản tiền này. Khoản tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao bởi vì ngân hàng có thể chủ động sử dụng nó cho hoạt động kinh doanh của mình đặc biệt là để cho vay trung dài hạn.

Là sản phẩm huy động truyền thống với các hình thức phong phú và kỳ hạn đa dạng nên tiền gửi tiết kiệm rất phù hợp với dân cư, đáp ứng được nhu cầu người gửi, khả năng huy động của ngân hàng từ nguồn vốn này là rất tiềm năng. Tuy nhiên ngân hàng cần chú ý đến chính sách lãi suất huy động, nghiên cứu để đưa ra các hình thức huy động hấp dẫn, phù hợp với tính đa dạng phong phú và phức tạp của đối tượng dân cư. Đặc biệt cần có cơ chế trả lãi hợp lý đối với loại tiết kiệm không kỳ hạn, cơ chế đảm bảo bằng giá trị vàng, hay ngoại tệ mạnh cho các loại tiết kiệm nội tệ, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người gửi, tạo niềm tin để khuyến khích dân cư gửi vào ngân hàng ngày càng lớn.

Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá

Các giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định để sử dụng cho một mục đích nào đó. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự cấp thiết của việc huy động vốn nên thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn thông thường.

  • Chứng chỉ tiền gửi (CDs):

CDs là công cụ vay nợ do NHTM bán cho người gửi tiền với lãi suất nhất định và được lưu thông khi chưa đến hạn thanh toán. Người sở hữu CDs có thể được hoàn trả hết toàn bộ số tiền gửi cộng với lãi hoặc có thể bán CDs trên thị trường thứ cấp. CDs là công cụ mang lãi suất, lãi suất của nó được tính toán trên cơ sở 360 ngày và được trả theo mệnh giá và thời hạn.

Lãi suất của CDs được tính dựa trên lãi suất của thị trường tiền tệ, tình trạng tài chính của ngân hàng phát hành ra nó và thời hạn thanh toán CDs. Mức lãi suất của CDs do ngân hàng có chất lượng cao phát hành thường cao hơn lãi suất của tín phiếu kho bạc, sự chênh lệch này phản ánh mức độ chênh lệch và rủi ro của từng ngân hàng. Sự phát triển của CDs cùng với sự nhạy cảm của lãi suất giúp các NHTM chủ động trong việc huy động vốn và thích ứng với môi trường cạnh tranh mới.

  • Trái phiếu :

Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người hữu, trong đó cam kết sẽ hoàn trả nợ kèm lãi trong một thời hạn nhất định. Thông qua phát hành trái phiếu, ngân hàng có thể thu hút được nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư. Việc phát hành trái phiếu sẽ thu hút được lượng tiền ổn định trong dài hạn do vậy phát hành trái phiếu chỉ được thực hiện khi ngân hàng thực sự cần một lượng vốn lớn hoặc khi ngân hàng đã có kế hoạch sử dụng vốn để cho vay trung dài hạn.

  • Kỳ phiếu:

Kỳ phiếu là chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn, có lãi suất tương ứng với từng loại kỳ hạn hoặc phương thức trả lãi trước hoặc sau. Đây là giấy tờ có giá ngắn hạn nghĩa là ngân hàng sẽ có được nguồn vốn chủ động với tính chất ổn định cao nhưng chi phí mà ngân hàng bỏ ra cũng rất lớn. Do vậy ngân hàng phải có chính sách huy động vốn linh hoạt để đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.

Huy động vốn qua các khoản đi vay

Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW, hoặc giũa các NHTM với nhau trên thị trường liên ngân hàng, hay với các tổ chức tài chính khác.

* Vay NHTW:

Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ ( thiếu hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán ) NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay của NHNN chủ yếu là tái chiết khấu các thương phiếu hoặc tái cấp vốn. Trong điều kiện của Việt Nam chưa có thương phiếu NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.

* Vay các TCTD

0