Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc

Hồ Chí Minh đã qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo sát các cuộc cách mạng trên thế giới và thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa để từ đó vạch ra con đường giải phóng phù hợp cho dân tộc Việt Nam. Năm 1930, Người đọc “Sơ thảo…” Lênin ...

Hồ Chí Minh đã qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo sát các cuộc cách mạng trên thế giới và thâm nhập vào cuộc sống của nhân dân các dân tộc bị áp bức
ở các nước thuộc địa để từ đó vạch ra con đường giải phóng phù hợp cho dân tộc Việt Nam.
Năm 1930, Người đọc “Sơ thảo…” Lênin làm cho Người sáng tỏ … Người biểu quyết tná thành gia nhập quốc tế Cộng sản, đánh dấu…
Sau đó Người đã tham gia hoạt động lý luận và thuyết diễn cực kỳ sôi nổi trong Đảng Cộng sản Pháp và quốc tế Cộng sản.
Cuối 1924, đến Quảng Châu – Trung Quốc, sáng lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên, xuất bản báo Thanh niên, mở lớp huấn luyện cán bộ… Trong thời gian này, Người cho xuất bản các tác phẩm “Bản…”, và tác phẩm “Đường Cách mạng”. Tháng 2/30, tại Hội nghị hợp nhất, Người trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt… những văn kiện này đã đánh dấu sự hình thành cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộccủa Việt Nam.
ở thuộc địa có thể tóm tắt thành một hệ thống luận điểm như sau:

1) Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản:

– Thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở nước ta là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống thế giới. Chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành nhau xâu xé thuộc địa vừa liên kết với nhau trong việc đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa.
– Các nước thuộc địa chẳng những cung cấp nguyên liệu mà còn cung cấp binh lính cho quân đội đế quốc nhằm đàn áp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc.
– Trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các thuộc địa có chung một kẻ thù, vì vậy phải phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau.
Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa có… Từ đó phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cách của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp với cách mạng vô sản; mặt khác cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải theo con đường cách mạng vô sản, tức là phải đi theo đường lối Mác Lênin.

2)Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo:

Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh. Đảng có vững chắc mệnh mới thành công… Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin.
Các lãnh tụ yêu nước tiền bối cũng đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Phan Chu Trinh đã nói: ngày nay, muốn có độc lập, tự do, phải có đoàn thể, nhưng ông chỉ kịp nói mà không kịp làm. Phan Bội Châu đã tổ chức ra Đảng Việt Nam Quang phục hội, sau dự định cải tổ nó thành Việt Nam Quốc dân đảng theo kiểu Tôn Trung Sơn, nhưng ông chưa kịp thực hiện thì đã bị bắt, bị đưa về giam lỏng tại Huế.
Dù đã thành lập hay chưa thì các đảng kiểu đó cũng không thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một đường lối tổ chức chặt chẽ; lại không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng, nên sớm muộn cũng rơi vào tan rã và thất bại.

3) Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông:

Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, công, nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công- nông. Phải nhớ: “Công nông là người chủ cách mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
– Trong phạm vi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và địa chủ phong kiến tay sai nhằm giành lại độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân, nên Nguyễn Ái Quốc chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do.
– Người đã viết trong Sách lược vắn tắt tại Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, tân Việt…, để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã rõ mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v…) thì phải đánh đổ.
– Do chưa phân biệt được sự khác nhau giữa yêu cầu mục tiêu của cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, lại chịu sự chi phối của quan điểm “tả” khuynh của đường lối “giai cấp chống giai cấp” đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ, nên đã có ý kiến cho rằng Nguyễn Ái Quốc quá chú trọng vấn đề dân tộc, “chỉ nghĩ đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh”,v.v…
– Thực ra, trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp”.

4) Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc:

– Đây là một điểm mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế, như đã nói ở trên, đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 có đoạn viết: “Công nhân và nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và nước Pháp lật đổ được Lôiit Gioócgiơ và Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình”.
Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, ngày 1-9-1928 viết: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này, vô hình trung đã giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
– Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) Nguyễn Ái Quốc đã phân tích: “Vận mệnh giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh rắn đằng đuôi”.
– Vận dụng công thức của Các Mác: “Sự giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Nguyễn Ái Quốc đã đi tới điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
– Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”, và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
– Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác- Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

5) Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.

– Từ đầu năm 1924, Nguyễn Ái  Quốc đã đề cập khả năng một cuộc vũ trang khởi nghĩa ở Đông Dương.
– Tháng 5-941, tại Hội nghị lần thứ tám, Người đưa ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vụ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương… mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa.

0