29/01/2018, 21:20

Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Văn mẫu lớp 9

Nội dung bài viết1 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 1 2 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 2 3 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 3 4 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 4 5 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 5 ...

Nội dung bài viết1 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 1 2 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 2 3 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 3 4 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 4 5 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 5 Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 1 Câu chuyện được kể "Vào một đêm trời sáng trăng suông, trong một ngôi nhà nhỏ giữa Tháp Mười mà xung quanh nước đã lên đầy…". Người kể chuyện là "đồng chí già"- một chiến sĩ lão thành từng trải qua biết bao nỗi buồn, niềm vui trong hai cuộc kháng chiến. Ông vừa là người chứng kiến, vừa là nhân vật của câu chuyện. "Chuyện xảy ra cách đây đã hơn một năm rồi, mà mỗi lần nhớ lại, tôi cứ bàng hoàng như vừa thấy một giấc mơ…". Ông già cất tiếng. Giọng trầm đục, đầu hơi cúi xuống, mặt ngước nhìn mênh mông. Ngay từ mấy dòng đầu ấy của tác phẩm, Nguyễn Quang Sáng đã tạo được không khí cho câu chuyện. Ông không trực tiếp kể mà dùng nhân vật người già với cái giọng trầm ấm dể dẫn dắt bạn đọc. Do đó, truyện ngắn hiện đại mà âm vang như một truyện cố tích, một huyền thoại, với biết bao nhân vật, bao chi tiết, tình huống bất ngờ, kì diệu. Đây là sự sáng tạo của nhà văn hay chính là cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam anh hùng đầy những điều diệu kì, sáng tạo nên? Xung quanh "chiếc lược ngà" ấy, chúng ta gặp những con người nhân hậu, thông minh, dũng cảm và cũng… sáng tạo biết bao! Tác phẩm khá dài, có nhiều tình huống, sự việc éo le, hấp dẫn diễn ra trong nhiều quãng thời gian, hiện tại, quá khứ đan xen, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Ở đây, chúng ta chỉ đọc hiểu và suy ngẫm về đoạn trích trong sách Ngữ văn 9. Theo lời kể chuyện – nhân vật xưng tôi – chúng ta có thể tóm tắt những tình tiết như sau: Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thâm con. Bé Thu – con gái ông – không nhận cha, trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm cho ông Sáu đau lòng, nhưng ông vẫn yêu thương con bằng tất cả tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, ông Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau. Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra, mấy ngày trước, do nhìn thấy trên mặt ông Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy ông không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện. Em cất tiếng gọi "Ba… ba !.." và hẹn "Ba mua cho con một cây lược nghe". Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn hết tình cảm yêu quý nhớ thương con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu ông đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược nhờ người bạn, gửi vé tận tay cho con. Xung quanh câu chuyện vể chiếc lược ngà ấy, hai hình tượng nhân vật nổi bật lên. Nhân vật thứ nhất: cô bé Thu – một em gái tám tuổi – có một tình yêu cha đằm thắm và kì lạ. Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà. Đến khi Thu lên tám tuổi, hai cha con mới được gặp mặt nhau. Cô bé tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo hoa đỏ, hồn nhiên, xinh đẹp, mới nhìn, ông Sáu đã nhận ra ngay con gái mình. Vậy mà, trong suốt ba ngày gần gũi, cô bé đã không nhận ra cha của mình. Cô đã nói năng cộc lốc, đã cư xử vùng vằng, ương ngạnh. Tình cảm cha con tưởng chừng không hình thành được. Song đến giây phút cuối cùng, trước khi ông Sáu đi xa, thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha "đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao". Đằng sau dôi mắt mênh mông, chắc đang xáo động biết bao ý nghĩ, tình cảm. Mấy tiếng gọi "Ba… ba !" cùng cử chỉ ôm chặt lấy cổ ba, hôn khắp mọi nơi, "hôn cả vết thẹo dài trên má của ba", biểu hiện một tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với cha. Và khi nghe ông Sáu nói "Ba đi rồi ba về với con", cô bé hét lên "không", rồi hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp chặt lấy ba, đôi vai nhỏ run run! Chắc cô bé khóc? Phải chăng lúc ấy Thu thực sự thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm của minh, thực sự thấy xót thương người cha đau khổ? Trong trí nhớ ngây thơ của cô, cha cô đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ. Vậy mà, cô không hiểu, cô lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Được bà ngoại giải thích, cô mới hiểu ra mọi lẽ. Khi bé Thu hiểu thì đã… muộn rồi. Cha sắp đi xa, xa mẹ, xa con, và tiếp tục cuộc đời gian khổ. Vì vậy, Thu siết chặt cổ cha, níu chặt lấy người cha, như muốn đền bù những hụt hẫng đã qua. Nhà văn không viết nhiều, song chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, đủ cho chúng ta xúc động trước những nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật. Nỗi niềm, tâm trạng ấy trong tréo, chân thành xiết bao. Vì thế, khi thấu tỏ nguyên cớ khiến bé Thu ương ngạnh, chưa chịu nhận ông Sáu là cha, mọi người và bạn đọc chúng ta đều có thể cảm thông, và lượng thứ cho Thu. Trong lâm hồn cô bé tám tuổi ấy, người cha đẹp lắm, trẻ lắm. Giờ đây, cô lại vỡ thêm một vẽ dẹp nữa là : cha cô thật anh hùng. Cái giây phút "vỡ" ra ấy của nhân vật được nhà văn miêu tả bằng một đoạn văn thật đặc sắc: "Ba…a…a…ba ! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người… tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó,… nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi (người kể chuyện) thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên". Dường như từ giờ phút thức tỉnh đó, Thu bắt đầu thay đổi. Cô bé không chỉ yêu cha, mà còn thương cha, tự hào về cha. Tình yêu thương và niềm tự hào ấy, phải chăng đã trở thành sức mạnh thôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành sau này, khi cô trở thành một chiến sĩ giao liên, gan dạ, dũng cảm ? Có thể nói, ở tuổi thiếu nhi, Thu là một em gái có tình cảm thật mạnh mẽ, sâu sắc, hồn nhiên, ngùy thơ,… Tất cả nét cá tính ấy đều tập trung biểu hiện tình cảm con đối với cha thật đằm thắm, bất diệt. Nhân vật thứ hai: ông Sáu – một người cha hi sinh cả cuộc đời để gìn giữ tình cha con bất diệt. Vì cuộc chiến đấu chung của dân tộc, ông Sáu đã mang vết sẹo trên mặt, đã hi sinh cả vẻ đẹp của một thời trai trẻ. Đấy là nổi đau thể xác. Mấy ngày về thăm nhà, ông lại phải trải qua nỗi đau tinh thần : đứa con gái duy nhất ông hằng mong nhớ, không chịu nhận ông là cha, không một lời gọi "ba". Cho đến phút cuối cùng trước lúc chia tay, ông mới được hưởng hạnh phúc của người cha. Nhưng phút ấy ngắn ngủi quá. Để rồi cụối cùng ông vĩnh viễn phải xa con. Ông đã ngã xuống trong thầm lặng, không một lời trăng trối, không nấm mồ, không bia mộ: "Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật thì cũng đã đành một lẽ, còn người chết cũng phải chết bí mật nữa". Lời ông Ba nói với đồng đội khi kể chuyện, hay đấy chính là lời nhấn gửi thiêng liêng của ông Sáu gửi lại người ruột thịt, gửi lại tới chúng ta? Sống rồi hi sinh, khổ đau và lặng lẽ, song người chiến sĩ ấy không chết. Vì ông là một người cha hết mực yêu thương con. Mang lời hẹn ước của con gái ra đi, ông đã miệt mài, say sưa, cưa giũa, thận trọng, tỉ mỉ như một nghệ nhân, làm chiếc lược bằng ngà voi tặng con gái. "Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng" của ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông đã nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc, cho chiếc lược thêm bóng, thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ, song người đọc vẫn hình dung cái kỉ vật nhỏ bé mà thân thương ấy, mỗi ngày mỗi đẹp lên, trắng ngà, anh ánh, toả sáng lung linh. Đó là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Do đó, trước khi vĩnh biệt con, ông Sáu vẫn nhớ chiếc lược, đã chuyển nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một ước nguyện gìn giữ muôn đời tình cảm cha con, ruột thịt. Điều đó đúng như ông Ba nói "chỉ có tình cha con là không thể chết được". Chiếc lược ngà đã tìm được địa chỉ trao lại cho người con gái để "tình cha con không… chết !". Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong sự sống của người đồng chí già, của bé Thu – nay đã là cô giao liên mười tám tuổi… Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ ngợi ca tình cha con đậm đà, sâu nặng, bất diệt của hai cha con ông Sáu mà còn gợi cho người đọc thấm thìa những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh gieo xuống cho bao con người, bao nhiêu gia đình trên đất nước Việt Nam. Gấp sách lại, chia tay ông Ba, câu chuyện về Chiếc lược ngà với lời nói cuối cùng của ông – giọng trầm ấm khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng la, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lí, tình cảm nhân vật và một giọng kể nhẹ nhàng, thấm thìa, truyền cảm. Ông Ba – người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải đã sống hết mình với công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Qua cuộc đời mỗi nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rằng: trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng dội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt! Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 2 Chúng ta đang sống trong một đất nước hoà bình, được sự dìu dắt, yêu thương của cha mẹ, được đùa vui dưới mái trường đầy ắp tiếng ca. Chúng ta có thể quên được chăng những trang sử hào hùng ấy, ngày các lớp cha anh đi trước đã hi sinh cả tính mạng. Máu của các anh đã nhuộm màu phì nhiêu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay. Các anh đã hi sinh cả thể xác lẫn tinh thần, hi sinh cả những hạnh phúc mà lẽ ra các anh phải được hưởng. Chiến tranh, vùng trời của tan thương và chết chóc. Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gởi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn dấu được. Tình cảm thiêng liêng ấy càng mãnh liệt hơn trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1945, tập kết ra Bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thuộc nhiều thể loại: Truyện ngắn có “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Vẽ lại bức tranh xưa”… Các tiểu thuyết “Đất lửa”, “Mùa gió chướng”, “Dòng sông thơ ấu” được nhiều độc giả biết đến và đặc biệt là kịch bản phim nổi tiếng “Một thời để nhớ một thời để yêu”. Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truỵên ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích SGK đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử. “Chiếc lược ngà ” được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Nội dung văn bản trong SGK là cuộc gặp gỡ của anh Sáu – một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu – con gái anh không nhận cha , trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau .Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi “Ba…ba!..” và hẹn “Ba mua cho con một cây lược nghe!”. Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quí nhớ con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba – nhân vật xưng tôi. Tuy đây là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc. Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá ấy là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc. Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng ?’’. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và má. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước găp bố. Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Anh Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà anh Sáu cứ nôn nao cả người. Anh đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến anh không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, anh Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu anh nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của anh Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm xiết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách… Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy anh Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của anh cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập run run”, anh dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng anh nhưng không ngờ bỗng nó hét lên “má…má” và bỏ chạy. Tại sao Thu lại có những hành động như vậy ? Nó yêu ba nó lắm cơ mà ? Nó mong ba về từng ngày từng giờ. Vậy mà tất cả đều lật ngược với nó. Ba nó thật đây, sao nó không nhận ? Hành động của con bé khiến anh sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà anh dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong anh là nỗi đau khổ vô bờ. Nỗi đau ấy còn dày vò anh trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở nhà anh Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con. Anh muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về tình cảm cho con bé. Dường như anh muốn bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, anh sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con bé đối với anh. Anh muốn ôm con mà nói rằng: “Ba yêu con nhiều lắm Thu à!” và có lẽ chắc anh cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà vào lòng mà rằng “Con cũng yêu bố nhiều lắm ạ!” thế nhưng không… những gì anh từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Đến lúc này anh chỉ biết “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.” Tôi thoáng nghĩ đến cảm xúc lúc này và những câu hỏi xoay quanh anh. Tại sao thế nhỉ? Thu làm vậy là sao? Ba nó sao nó không chịu nhận? Nhìn nó tôi như có cảm giác nó cự nự, quyết không chịu gọi ba. Thái độ này thật không đúng với tình cha con xa cách bấy lâu, hay con bé đang giận ba vẩn vơ gì đó chăng? Cao trào của câu chuyện càng nâng cao khi nồi cơm sôi, một mình nó bé, không thể tự nhấc nồi để chắt nước, nó đã phải cầu cứu đến người lớn. Tình thế khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải thua không thể “chiến tranh lạnh” được nữa – nó buộc phải gọi ba để giúp đỡ. Nhưng nó vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong! Chỉ cần nói lên cái tiếng ba ấy thế thôi, là nó sẽ thoát khỏi thế bí. Nhưng quyết không! Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh tự mình làm lấy một công việc nguy hiểm và quá sức! Nghĩa là nó không chịu nhượng bộ, không chịu thua cuộc. Điều ấy làm cho người cha, người bạn của cha và cả người đọc phải đau lòng. Còn gì đau khổ bằng người cha giàu lòng thương yêu con mà lại bị chính đứa con ấy chối bỏ! Dưòng như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngoài nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa trong lòng. Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: Chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái thẹo trên má ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng … đã muộn rồi. Song đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không muốn bứơc. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại giẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu thưong mà anh muốn trao gởi tới con . “Thôi ba đi nghe con”. Phải chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh “Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Cùng với cử chỉ “vừa kêu vừa chạy xô tới nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên”. “Vừa ôm chặt lấy cổ ba, nó vừa nói trong tiếng khóc “Ba…ba…không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con”. Nó ôm hôn anh Sáu và “hôn cả vết thẹo dài trên má của ba”, biểu hiện một tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với ba. Và khi nghe anh Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con”, cô bé hét lên “không”, rồi hai tay xiết chặt cổ, dang cả hai chân quặp chặt lấy ba, đôi vai nhỏ run run! Chắc cô bé khóc. Phải chăng lúc ấy Thu thật sự thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm của mình, thật sự thấy xót thương người cha đau khổ? Nó mếu máo “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba…”. Tất cả lời nói thể hiện rõ tính cách của một cô bé bồng bột thơ ngây và chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ của em đối với ba. Thật sâu sắc và cao đẹp biết bao. Có lẽ lúc này bé Thu đã trở thành một nguời lớn thực sự. Tất cả sự dỗi hờn của bé Thu lúc này đều chuyển thành lòng yêu thương sâu sắc ba nó. Trong cái ương ngạch, bướng bỉnh, trong cái giận dỗi và cả sự hối hận của Thu, ta vẫn thấy bé thật thơ ngây, thật đáng yêu. Về phần anh Sáu hạnh phúc đến với anh quá đột ngột khiến cổ anh nghẹn lại. Không kìm được xúc động, anh Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé đã gọi anh bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yểu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, anh Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ anh có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu liôn chờ đợi anh, từng giây từng phút mong anh quay về. Tình cảm của anh Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng loé lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm – chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi anh “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Anh thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao! Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha – người cha thứ hai của cô bé Thu. Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mã bọn chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được. Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha mình đã bị bọn giặc giết hại. Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện vè hai cha con anh sẽ còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc hoạ rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta “cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi luỵ xaỷ ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xich lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng. Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà” với lời nói cuối cùng của ông – giọng trầm ấm khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba – người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Qua cuộc đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rằng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt! Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 3 Câu chuyện viết về tình cảm cha con của những người kháng chiến, những người cách mạng. Nhưng đó cũng là tình phụ tử muôn đời. Truyện không dài, tình tiết không li kì, tư tưởng cũng không phức tạp. Nó chân thực và giản dị. Chính cái “cảm động ấy” đã tạo nên một câu chuyện hay. Truyện nói đến ba nhân vật: Một người con và hai người cha. Truyện viết về hai cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, éo le: cuộc gặp gỡ đầu tiên mà cũng là cuối cùng của cô con gái với cha mình và cuộc gặp gỡ cũng của người con ấy với bạn chiến đấu của người cha đã hi sinh. Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá. Chính nó đã nối hai cuộc gặp gỡ với ba con người: Chiếc lược ngà.Nhưng vang vọng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị mà thiêng liêng bậc nhất của cõi đời này: ấy là tiếng nói “ba”. Nhìn từ tình huống truyện, Chiếc lược ngà là một truyện ngắn không chỉ có một tình huống duy nhất mà có hai tình huống, mỗi tình huống xoay quanh một cuộc gặp gỡ. Mỗi tình huống ấy là hạt nhân của một truyện nhỏ mà ta có thể gọi thành tên: truyện nhỏ thứ nhất có thể gọi là Cái thẹo của cha, truyện nhỏ thứ hai là Chiếc lược cho con. Truyện thứ nhất làm tiền đề cho truyện thứ hai. Hai truyện nhỏ liên hoàn tạo thành một truyện lớn hoàn chỉnh. Đó là dạng tình huống giàu kịch tính. Vì thế cũng có thể xem Chiếc lược ngà như một vở kịch nhỏ gồm hai màn khá rõ rệt. Mỗi màn là một cuộc gặp gỡ éo le mà cảm động. Hãy nói về cuộc gặp gỡ thứ nhất. Khi ấy, nhân vật Thu còn là một cô bé. Người cha được về thăm nhà sau bao nhiêu năm ở chiến khu. Khao khát đốt long của ông là được gặp con, được nghe con gọi tiếng “ba”, để được sống trong tình cảm cha con mà lâu nay ông chưa từng được sống, bấy lâu ông mong đợi. Nhưng mọi chuyện đã diễn ra với không ít trái ngang. Đứa con gái đã hoàn toàn lạnh lung trước mọi tình cảm vồ vập của cha. Ông càng xích lại gần, nó càng lùi xa. Ông càng chiều thương, nó càng lảng tránh. Ông càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ long con, nó càng cố tình cự lại. Ngọn lửa nồng nàn của lòng cha cứ bị những đối xử xa lánh, ương ngạnh của con giội xuống những gáo nước lạnh. Có những tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng được nữa, ấy thế mà nó vẫn quyết liệt. Đó là lúc cơm sôi, một mình nó không thể tự nhấc nồi để chắt nước. Nó đã phải cầu cứu đến người lớn. Tình thế khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải thua, không thể chiến tranh lạnh được nữa – nó buộc phải gặp cha để được giúp đỡ. Nhưng không. Nó vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong. Chỉ cần nói lên cái tiếng “ba” ấy thôi, là nó sẽ thoát khỏi thế bí. Nhưng quyết không? Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh, bất cần! Tự mình làm lấy một công việc nguy hiểm và quá sức? Nghĩa là nó không chịu nhượng bộ. không chịu thua cuộc. Điều ấy đã làm cho người cha, người bạn của cha và cả người đọc đau lòng. Còn gì đau lòng cho người cha giàu lòng thương yêu con, mà lại bị chính đứa con ấy kiên quyết chối bỏ! Nhưng, khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý! Chính thái độ quyết liệt ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì bấy giờ, cô bé thấy vết thẹo dài trên má người đang xưng là ba đây không giống hình ảnh cha mình. Cô bé không tin, thậm chí còn ngờ vực. Điều đáng nói là cô bé không dễ tin người khác. Nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa chịu thông. Còn chưa thông thì còn chưa chịu. Nó không đơn thuần là sự bưởng bỉnh của một con bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính là cái mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô gái giao liên giải phóng. Đến khi được ngoại giảng giải về lai lịch vết thẹo trên má ba thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người cha thân yêu trên ảnh, người ba kính mến mà cô bé ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy, mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đấy. Đã vỡ lẽ thì lòng yêu ba nhân lên gấp bội. Nhưng muộn quá, đúng lúc ba từ giã lên đường, nó mới có thể gọi ba. Tiếng “ba” vỡ ra từ sâu thẳm lòng cô bé. Cái tiếng mà ba nó đang chờ đợi suốt chin năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày trời về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe, thì bất ngờ, nó thét lên. Nó vỡ ra, còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa: Nhưng thật lạ lung, đúng lúc ấy tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó kêu thét lên: – Ba…ba… Tiếng kêu “ba” của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa (…) Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: -Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con! Ba nó bế nó lên. Nó hôn ba khắp mọi nơi. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa. Đối với người cha ấy, đó là tiếng gọi “ba” đầu tiên và cũng là những tiếng cuối cùng ông nghe được từ con! Có thể còn kể thêm nhiều nét tính cách khác ở nhân vật Thu nhưng đây là vẻ đẹp cốt lõi của hình tượng nhân vật này khi còn là một cô bé. Còn người cha, ông cũng có nhiều nét đẹp khác như chiến đấu ngoan cường trung thành với cách mạng, gắn bó với quê hương, đồng chí, đồng đội…Nhưng vẻ đẹp nổi bật nhất được tô đậm ở đây chính là tình phụ tử. Những ngày chưa được gặp con, người cha ấy khổ sở nôn nao bao nhiêu thì giây phút được nhìn thấy con, ông càng vồ vập, cuống quýt bấy nhiêu. Và khi con không nhận mình ngay, ông đã đau khổ và kìm nén đau khổ đến nhường nào. Tuy nhiên, tất cả những thứ ấy chỉ là thứ yếu. Điều cảm động nhất là việc tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba”. Đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất. Cho nên, nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược, trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông đã làm công việc ấy bằng cả sức mạnh và sự cố gắng của tình phụ tử. Ông đã ngồi bật dậy như bỗng lóe lên một sáng kiên lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua sắm được cây lược, làm lược từ ngà voi là cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm – chiếc lược cho con của anh phải được bằng thứ quý giá ấy. Và, anh không muốn mua mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt vào đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà. Vậy đấy, khi người ta hóa thành con trẻ, lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi, anh ngồi cưa từng chiếc rang lược, thận trọng, tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc. Anh gò lung, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu, con của ba”. Anh thường xuyên lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Cho nên cây lược ngà đã kết tinh trong đó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kì diệu làm sao. Thế rồi, anh không kịp đưa cây lược ngà đến tận tay cho con. Người cha ấy đã hi sinh. Nhưng hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được. Không còn đủ sức trăng trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc đưa tay vào túi, móc cái lược đưa tay cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăng trối không lời. Nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc. Bởi đó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha – người cha thứ hai của cô bé Thu. Và cuộc gặp gỡ thứ hai đã diễn ra. Giữa hai cuộc gặp gỡ, cô bé Thu bướng bỉnh ngày nào đã kịp trở thành cô giáo liên giải phóng. Cô được tin ba mình hi sinh. Lòng căm thù giặc giết hại người cha thân yêu đã khiến cô cầm súng. Vậy là, đi đánh giặc, với Thu, trước hết cũng là xuất phát từ tình phụ tử. có lẽ Thu cũng đã quên chuyện cây lược thuở bé rồi! Nhưng cây lược ấy vẫn được gìn giữ cẩn trọng và vẫn thầm lặng tìm cô trên những ngả chiến trường. Cuộc gặp gỡ thứ hai vừa tất yếu vừa tình cờ. Tất yếu vì sớm muộn gì rồi cũng sẽ diễn ra. Còn tình cờ vì cả bác Ba lẫn cô Thu đều không thể ngờ rằng , bác Ba đã nhầm. Nhưng thực ra chẳng có ai nhầm! Người cần trao cây lược, bác Ba đã tìm thấy. Nếu trong những ngày mang chiếc lược, sự cẩn trọng nâng niu đã thực sự khiến bác Ba trở thành một người cha, thì giờ đây, khi nhìn cô bé Thu, tình cha con đang dâng lên trong bác: “Thấy cháu nhìn nhắm cây lược, tim tôi nhói đau. Tôi biết cháu đang bàng hoàng trước hạnh phúc bất ngờ. Tôi không muốn làm gì xao động đến hạnh phúc của cháu, tôi thấy cần phải nói dối: – Ba cháu vẫn khỏe, ba cháu không về được, nên gửi cho bác (…).Nhìn cháu tôi bỗng buột miệng: – Thôi ba đi nghe con! Tôi không thấy cháu đáp lại, chỉ thấy đôi môi tái nhợt của cháu mấp máy. Trong cuộc chia tay thứ nhất, tiếng “ba” của bé Thu kêu thét lên xé tan sự im lặng, xé tan cả ruột gan mọi người, đó là tiếng gọi ba của một đứa trẻ. Còn trong cuộc chia tay thứ hai này, tôi không nghe cháu gọi tôi là ba. Nhưng những lúc nằm một mình, nhớ lại thì tôi nghe thấy tiếng gọi ba của cháu và tiếng ba như vang lên trong tâm tôi. Ấy là tiếng gọi “ba” của một người lớn. Một tiếng “ba” ngây thơ, bồng bột, và một tiếng “ba” mặn mà, từng trải của những người đã chịu đựng mất mát hi sinh. Tiếng “ba” nào cũng chân tình và tự nhiên bởi nó buột ra từ trong tâm khảm con người. Tình phụ tử cao đẹp cứ truyền qua lồng ngực những người cha như một dòng máu bất tận. Và tình cha con cũng dào dạt muôn đời bất diệt trong lòng những đứa con. Tình người thiêng liêng ấy không kẻ thù nào có thể tiêu diệt được, trái lại, nó càng sáng đẹp hơn, bền bỉ hơn trong đạn bom tàn phá. Đó chẳng phải là điều sâu kín nhất mà truyện ngắn Chiếc lược ngà muốn gửi đến mỗi người đọc chúng ta hay sao? Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 4 Vì tính cách mạnh mẽ, nên Thu ương ngạnh không chịu nhận ông Sáu là cha. Lần đầu tiên, khi nhìn thấy cha, bé Thu sợ hãi đến hét toáng lên và bỏ chạy. Đó là một điều đương nhiên khi trẻ con thấy người lạ khi vồ vập mình, hơn nữa, người lạ đó lại có vết sẹo rất đáng sợ. Nhưng mấy ngày sau, mặc mọi cố gắng gần gũi con của ông Sáu mà nó vẫn không chịu nhận cha thì chứng tỏ nó rất ương ngạnh. Nó không chịu gọi ông Sáu là “ba” mà chỉ gọi trống không khi mời ông vào ăn cơm hay khi nó muốn nhờ ông chắt nước nồi cơm đang sôi giùm cũng vậy. Bị dồn vào thế bí, nó vẫn không chịu gọi một tiếng “ba” mà thay vào đó cố nghĩ cách để chắt nước cơm và không cần giúp đỡ thì thật là đáo để. Không những vậy nó còn phản ứng quyết liệt: hất miếng trứng cá ra khỏi bát khi ông Sáu ân cần gắp cho nó. Khác những đứa trẻ khác, bị đánh nó không khóc, mà chỉ lẳng lặng gắp miếng trứng vào bát cơm rồi bỏ đi sang bà ngoại. Thực ra, sự phản ứng mạnh mẽ của bé Thu càng chứng tỏ nó rất yêu cha, nó không chịu nhận ông Sáu là cha chính là vì nó yêu cha nó sâu sắc. Sống trong cảnh chiến tranh khắc nghiệt, gia đình bị chia cắt, Thu chỉ biết cha qua tấm hình chụp chung với má. Khao khát mong gặp cha, nó hằng ngày ngắm cha trong ảnh. Nó quá nhỏ để hiểu được sự tàn nhẫn của chiến tranh, mà người lớn trong nhà lại không ai giải thích cho nó. Từ trước đến giờ nó chỉ yêu người cha trong ảnh, vì thế nó không chấp nhận “người đàn ông lạ mặt dám nhận là ba nó”, càng yêu ba của mình, nó càng xa lánh ông Sáu là nó có suy nghĩ riêng à không phải là không hợp lí. Không chấp nhận ông Sáu là ba, Thu có thái độ và hành động phản ứng rất quyết liệt; đến khi được bà giải thích về vết sẹo trên mặt ông Sáu, nó hiểu ra ông chính là cha mình thì tình cảm nó bộc lộ cũng rất mãnh liệt. Nghe bà nói nó ân hận không ngủ được, còn “thở dài như người lớn”. Hôm sau về nhà thấy mọi người vây quanh ba nó “vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Yêu ba nên nó vô cùng đau lòng khi làm ba nó buồn suốt mấy ngày phép ngắn ngủi, bây giờ ba phải đi rồi, nó chẳng thể chuộc lỗi. Nó chỉ có thể nhìn ba nó từ xa mà không dám lại gần vì nó biết, nó đã làm ba nó đau đớn rất nhiều.Phải đến lúc ba nói với nó: “Thôi! Ba đi nghe con?” thì nó mới như bừng tỉnh, kêu thét lên: Ba…a…a…ba! Tiếng gọi như xé lòng của nó dường như đã được ém giữ rất lâu rồi, giờ nó trào dâng ào ạt, nó chạy đến, nhanh như một con sóc, nó nhảy lên, ôm chặt lấy ba nó, nó xúc động mạnh đến mức làn tóc tơ sau gáy dựng đứng lên. Nó hôn cùng khắp và áp vào khuôn mặt cha, hôn rất lâu lên vết sẹo trên má. Khi nghe ba dỗ “Ba đi rồi ba về với con”, nó hét lên: “Không!”. Nó sợ ôm bằng tay chưa chắc, nên “dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó”. Tình yêu cha của con bé tám tuổi mạnh mẽ đến lay động cả gian nhà, làm bà con xung quanh không ai cầm được nước mắt. Tình cha con trong chiến tranh thật éo le, éo le đến đau lòng. Mong mãi con mới gọi một tiếng “ba” thì ông Sáu lại phải đi, trong lòng ông chắc nặng trĩu nỗi thương con, bởi ông yêu con vô cùng sâu đậm. Ông Sáu – một cán bộ thoát li đi kháng chiến, suốt tám năm xa con na được về thăm con ông xiết bao mong được sống mấy ngày thật hạnh phúc bên con. Nào ngờ, khi được gặp con, ông Sáu hồi hộp, sung sướng bao nhiêu, thì lại đau khổ bấy nhiêu, khi con bé cứ xa lánh ông. Ba ngày tiếp, ông càng săn đón, con bé lại càng lảng tránh, đau xót trong lòng không khóc được ông chỉ đành cười, những nụ cười ra nước mắt. Nỗi đau bị dồn nén, đẩy lên quá mức khi ông gắp cái trứng cá cho con và bị nó đẩy ra làm cơm bắn tung tóe. Phản ứng bất ngờ của con bé khiến ông không kịp suy nghĩ mà đánh con. Ông đánh nó không phải vì ông giận nó mà vì ông quá yêu nó, nên ông không làm chủ được hành động của mình trước phản ứng quá quắt của con bé. Đến khi phải chia tay con, ông vừa thương vừa sợ bị con phản ánh lần nữa thì ông càng đau lòng thêm, nên ông không dám vồ vập con nữa. Tình thương con được thể hiện tập trung, sâu sắc khi ông trở về khu căn cứ. Càng nhớ con ông càng day dứt, ân hận vì đã đánh con và ông càng nhớ lời con trước lúc chia tay: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”.Ông muốn làm chiếc lược cho con dường như để chuộc lỗi lại dường như để tỏ lòng thường yêu con vô hạn. Tác giả đã dành cả một đoạn văn dài miêu tả tỉ mỉ việc ông Sáu làm cây lược cho con. Nỗi nhớ con, tình yêu con bộc lộ trong từng cử chỉ nhỏ: từ việc ông vui như đứa trẻ khi xin đước miếng ngà voi, đến việc ông tỉ mỉ gọt giũa từng chiếc rang lược, chuốt cho thật nhẵn bóng,… Số rang lược càng tăng lên thì nỗi ân hận giảm đi, niềm hạnh phúc dâng lên và lòng mong mỏi được gặp lại con để tận tay trao cho con chiếc lược càng nhiểu. Chiếc lược ngà đã trở thành một kỉ vật thiêng liêng, một biểu tượng đẹp của tình cha con sâu nặng, bất tử. Phân tích truyện ngắn Chiếc lược ngà – Bài số 5 Có những câu chuyện dù phải đọc nhiều lần ta vẫn không thể nhớ. Lại có những câu chuyện dù chỉ đọc một lần ta vẫn không thể quên. Có những hạnh phúc muộn màng và ngắn ngủi khiến ta phải trào nước mắt. Có những tình cảm nồng ấm và thiêng liêng mà ta chỉ cảm nhận được trong tổ ấm gia đình… Tất cả những ấn tượng ấy đều có từ truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một truyện ngắn dung dị nhưng gây xúc động lòng người trước tình cảm sâu nặng của cha con ông Sáu. Đặc biệt truyện còn làm ngời sáng vẻ đẹp cứng cỏi cùng tình yêu thương cha mãnh liệt của một em bé mới bảy tám tuổi. Trong đời sống tự nhiên, ai ai cũng thầm công nhận một điều rằng, tình cảm của con cái hình như thân thiết và gần gũi với mẹ hơn. Còn với cha thì sao? Tình cha bao la và hy sinh vì con cái cũng không kém gì người mẹ, đôi khi còn mãnh liệt và sâu sắc hơn. Là một chiến sỹ cách mạng xa nhà đi thoát ly cách mạng từ khi đứa con đầu lòng còn chưa đầy tuổi, mãi đến khi hòa bình lập lại ông Sáu mới có dịp về thăm nhà. Non nao và hạnh phúc khôn tả khi nghĩ đến giây phút gặp con, ông Sáu lại thấy đau khổ và thất vọng hơn khi con không nhận cha. Cuộc gặp gỡ sau 8 năm xa cách là khởi đầu cho chuỗi những sự việc, thái độ, hành động thể hiện tình yêu thương cha mãnh liệt của Thu. Xa cách bao năm, Thu và cha chưa một lần gặp mặt, ông Sáu “chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người”, bé Thu chỉ biết mặt cha qua tấm hình chụp chung với má. Xa cha, Thu nhớ thương vô cùng và dường như hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã in sâu vào trong trí nhớ của Thu, là hình ảnh đẹp nhất trong lòng Thu. Tám năm sau khi người cha trở về, chiến tranh đã làm ông có sư thay đổi lớn khiến Thu không thể nhận ra cha mình. Từ đằng xa thấy “một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi” ông Sáu đoán biết là con, không chờ xuồng cập bến “anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”. Linh tính của người cha cho ông biết đấy là con mình, trái tim người cha hướng ông mau mau chạy về phía con để ôm lấy cái hình hài máu mủ mà ông hằng thương nhớ trong bao năm xa cách. “Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con… giọng lặp bặp run run Ba đây con, ba đây con!” Những tưởng cha con ông sẽ ôm chầm lấy nhau trong khoảnh khắc sung sướng thì trớ trêu thay con bé không nhận ra ông, nó giật mình “tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng”. Mặt Thu tái đi em kêu lên, bỏ chạy và cầu cứu “Má! Má”. Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với “vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rất dễ sợ” đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình. Những ngày sau đó, đáp lại tình cảm nồng nàn của cha, bé Thu lại càng tỏ ra sợ hãi, ngờ vực. Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu càng vỗ về, Thu càng lùi ra xa, ông càng chiều thương, nó càng lẩn tránh. Ông chỉ mong được nghe tiếng Ba mà sao khó khăn đến thế. Khi phải gọi ông Sáu ăn cơm, dẫu được mẹ nhắc nhở, Thu vẫn chỉ nói trổng “vô ăn cơm” hoặc “cơm chín rồi”. Đặc biệt trong một tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng hơn được nữa vậy mà Thu vẫn quyết liệt. Đó là lúc nồi cơm sôi, một đứa bé không thể tự mình nhấc nồi để chắt nước. Tình thế đó cứ ngỡ rằng Thu sẽ ngoan ngoãn nhờ ba giúp. Nhưng không, ngay cả khi bác Ba mờ đường cho “Cháu phải gọi Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy”, Thu vẫn không cất tiếng dẫu mấy lần em tỏ ra lo sợ bị mẹ đánh đòn nếu để cơm bị nhão. Bướng bình và bất cần, Thu tự mình làm một công việc nguy hiểm và quá sức. Nghĩa là nó không chịu thua, không chịu nhượng bộ. Song đỉnh điểm của sự ương bướng được thể hiện khi Thu “hất tung cái trứng cá to vàng” mà ông Sáu gắp cho nó. Bị đánh, nhưng Thu không khóc, lẳng lặng gắp lại cái trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích “ kêu rổn rảng” để tỏ ý bất bình, có lẽ nó muốn cho mọi người biết nó sắp đi để chạy ra dỗ dành. Một chuỗi những thái độ của Thu khiến ta có thể cho Thu là một cô bé bướng bỉnh, cứng đầu. Nhưng xét căn nguyên sâu xa, không thể coi đó là biểu hiện cửa sự ương ngạnh, cứng đầu, hỗn láo. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé Thu còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của cuộc sống , hơn nữa ba má bé Thu cũng không lường trước được sự việc để giải thích cho bé rõ. Trong suy nghĩ non nớt của em, ông Sáu có vết sẹo đáng sợ ấy sao chẳng giống hình ba chụp chung với má. Mà đã không phải là cha thì không thể gọi tiếng “ ba”. Điều đó chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động của em. Sự bướng bỉnh của Thu không thể hiểu là sự ương ngạnh của một đứa trẻ khó dạy mà là sự kiên định của một cô bé có lập trường yêu ghét phân minh. Trong thái độ cứng đầu ẩn chứa sự kiêu hãng dành cho người cha thân yêu.- người cha trong tấm hình chụp chung với má. Thế mới biết Thu là một cô bé có cá tính. Điều mà ở những đứa trẻ bày, tám tuổi thường không có. Đó cũng là tiền đề tạo phẩm chất gan dạ, dũng cảm của cô giao liên sau này. Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của ông Sáu, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng Ba trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy khiến em tỏ rõ thái độ căm ghét những gì em hoài nghi là sự xâm phạm đến hình ảnh người cha yêu quý. Đó là n

0