29/01/2018, 21:20

Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Văn mẫu lớp 9

Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 4 5 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 5 Phân tích ...

Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 4 5 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 5 Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 1 Tác giả Mác-xim Gor-ki là một nhà văn hiện thực nổi tiếng của nước Nga trong thời kỳ Xô Viết. Ông đã để lại cho nhân loại cũng như cho nền văn học Nga nhiều tác phẩm đình đám. Trong đó cuốn hồi kí “Thời thơ ấu” là một tác phẩm tiêu biểu tự kể về thời nhỏ của chính tác giả. Trích đoạn “Những đứa trẻ” là đoạn trích nhiều xúc động, thể hiện tình cảm thân thiết, tình yêu của cậu bé Aliôsa với bà của mình. Thông qua đoạn trích này tác giả đã tái hiện lại một tuổi thơ nhiều sóng gió, nhiều biến động của mình. Aliosa là một cậu bé bất hạnh, cuộc đời em trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Cha mẹ chẳng may qua đời từ khi Aliosa còn rất nhỏ, để lại mình em đơn độc giữa dòng đời nhiều sóng gió. Cậu bé ở với ông bà ngoại, người thân còn lại của em. Nhưng ông ngoại em lại là người nóng nảy và có khuynh hướng bạo lực. Ông thường xuyên đánh cậu bé bằng những trận đòn vô cùng tàn ác. Cậu bé có hai người cậu, và hy vọng hai người cậu này sẽ làm gì đó cho mình. Nhưng thật đáng buồn hai người cậu của em chỉ quan tâm tới gia sản của ông bà ngoại, chứ chẳng hề bận tâm tới sự tồn tại của cậu bé. Nhưng bù lại tuổi thơ của em vẫn còn một người thân thương yêu thật lòng, luôn quan tâm lo lắng cho em đó chính là bà ngoại của em. Bà lúc nào cũng dành cho em những thứ quý giá nhất. Bên cạnh đó, có những đứa trẻ con của một vị đại tá hách dịch, hàng xóm nhà bà em, chúng chính là bạn cũng là niềm vui cho tuổi thơ dữ dội của cậu bé được an ủi phần nào. Mở đầu đầu đoạn trích tác giả kể về sự gặp gỡ tình cờ của cậu bé Aliosa với những đứa trẻ con hà đại tá, khi cậu bé đang ngồi đu mình trên một cành cây cao. Cậu bé say mê nhìn những đứa trẻ và ước mơ được chơi chung với chúng. Và để gây sự chú ý, muốn bọn trẻ kia quay sang nhìn mình Aliosa đã thổi sáo ầm ĩ, rồi gây tiếng động lớn nhưng mấy đứa trẻ con nhà đại tá chỉ nhìn cậu bé bằng ánh mắt thăm dò và thì thầm gì đó với nhau khiến cho Aliosa cảm thấy có chút bối rối, xen lẫn ngượng ngùng, xấu hổ. Cậu bé cảm thấy không ổn chút nào nên vội vàng tụt khỏi cành cây để thoát khỏi những cái nhìn kỳ lạ của bọn trẻ kia. Rồi một lần Aliosa đã có cơ hội để có thể tiếp cận lũ trẻ con nhà đại tá. Lần đó đứa em út con nhà đại tá bị ngã xuống giếng Aliosa đã cùng hai người anh của nó cứu nó thoát khỏi chiếc giếng đó, khiến cho bọn trẻ rất nể phục và hàng rào ngăn cản chúng đã được tháo bỏ, “Xuống đây chơi với tớ” đó là lời mời mà cậu bé Aliosa mong chờ từ rất lâu. Cũng kể từ đây, Aliosa và bọn trẻ chơi với nhau vô cùng thân thiết xóa tan mọi rào cản, nghi ngại. Chúng ngồi bên nhau cùng nghe Aliosa kể chuyện cổ tích. Tất cả đều rất vui vẻ háo hức, đó là những khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời của cậu bé Aliosa. Nhưng những giờ phút hạnh phúc đó nhanh chóng tan biến, như mưa bóng mây, lão đại tá trở về nhà và nhìn thấy Aliosa liền giận dữ đuổi cậu bé và cấm từ nay không cho chú bé được qua lại với con mình. Sau đó, Aliosa còn bị ông ngoại đánh đòn, khiến chú vô cùng đau khổ. Nhưng tình bạn giữa cậu bé và những đứa trẻ con nhà đại tá vô cùng trong trẻo, thánh thiện nên không có gì ngăn trở được chúng đến với nhau. Bọn trẻ vẫn lén lút âm thầm trò chuyện. Tình bạn của bọn chúng không vì ngăn trở mà xa cách, ngược lại còn ngày càng thân thiết hơn. Để tiện cho việc qua lại, chúng đã âm thầm khoét một cái lỗ giữa hàng rào của hai nhà để đi lại cho tiện. Chúng còn tổ chức thay phiên nhau canh trực tên đại tá trong lúc nghe Aliosa kể chuyện cổ tích, nếu lão đại tá về thì sẽ báo để cậu bé trốn chui qua lỗ hàng rào chạy về nhà. Những chú chim nhỏ thật tội nghiệp, một tình bạn ngây thơ, trong sáng lại bị chia cắt, cấm cản bởi thói đời phân chia giai cấp sang- hèn, bởi sự tính toán, mưu mô của người lớn. Bằng lối viết chân thật, giản dị, xúc động tác giả đã kể lại quãng đời tuổi thơ của mình với những lời văn sâu sắc, vừa xen lẫn sự tủi nhục, buồn khổ vừa có sự ngây thơ, trong sáng. Tình bạn của ông là một dấu ấn khó quên đối với người đọc khi xem cuốn hồi ký này. Bên cạnh những người bạn thân thiết, Aliosa còn may mắn có thêm tình thương của bà ngoại. Người ruột thịt duy nhất yêu thương và lo lắng cho em thật lòng. Bà chính là niềm tin, là chỗ dựa tâm hồn cho cậu bé mỗi khi em gặp khó khăn trong cuộc sống. Tình yêu của bà giống như làn gió mát, nguồn sữa ngọt ngào thổi vào đời em mỗi khi em gặp đớn đau, bất hạnh. “Thời thơ ấu” là một tác phẩm hay để lại nhiều cảm xúc dành cho người đọc, Qua những lời kể, lời tự sự của chính tác giả, người đọc người nghe như thấm thía hơn tình cảm trong trẻ, ngây thơ của một cậu bé dành cho bà ngoại của mình. Qua những câu văn giản dị, mộc mạc, nhưng chân thành chúng ta biết về một tình bạn hồn nhiên, cao quý vượt qua mọi rào cản định kiến của xã hội, mang lại niềm tin, hy vọng cho những mảnh đời trẻ thơ bất hạnh, kém may mắn trong cuộc sống đó chính ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà tác phẩm đã để lại trong lòng mỗi chúng ta. Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 2 Đoạn trích "Những đứa trẻ" của nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki đã khiến cho chúng ta phải rung cảm trước hoàn cảnh của những đứa trẻ đáng yêu, phải sống trong sự thiếu thốn tình cảm gia đình và cũng khiến cho chúng ta cảm phục về tình bạn trong sáng của chúng. Đoạn trích "Những đứa trẻ" trích trong tác phẩm "Thời thơ ấu" được Mác-xim Go-rơ- ki viết vào những năm 1913 – 1914, cũng là những năm tháng sự phân biệt giàu nghèo trong xã hội Nga trở nên gay gắt. Tác phẩm mang tính chất tự thuật về chính cuộc đời của tác giả và những người hàng xóm, người thân trong gia đình ông. Đoạn trích là bức tranh sinh động về cuộc đời và số phận của những đứa trẻ và tình bạn trong sáng của chúng, Những nhân vật trong tác phẩm không được tác giả đặt tên, nó giúp cho bài văn mang tính chất khái quát hơn và đồng thời cũng làm cho câu chuyện mang đậm màu sắc cổ tích. Số phận của những đứa trẻ gợi lên trong người đọc lòng thương cảm trước hoàn cảnh khó khăn của chúng. Sống trong một xã hội phân biệt đẳng cấp giàu – nghèo rõ ràng, nhân vật tôi và ba đứa trẻ không có điều kiện để phát triển một tình bạn. Nhân vật tôi cũng như ba đứa trẻ nhà ông đại tá có chung một hoàn cảnh đó là không được nhận tình yêu thương từ cha mẹ. Khác với những đứa trẻ bình thường, nhân vạt tôi phải sống chung với ông bà ngoại vì bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng khác. Đã thế ông ngoại còn là một người khó tính nên nhân vật tôi thương bị đe doạ và bị đánh đòn một cách oan uổng. Còn ba đứa trẻ nhà ông đại tá thì mồ côi mẹ từ nhỏ, bố lấy vợ khác, chúng phải sống với bố và dì ghẻ – là những người mà chẳng bao giờ thấy chúng kể cho nhân vật tôi nghe. Chỉ biết rằng, bố của chúng là một người khó tính, hách dịch, luôn luôn cấm đoán chúng mọi thứ, nhất là chơi với nhân vật tôi và còn luôn đánh đòn chúng nữa. Chúng đều là những đứa trẻ đáng thương, không được nhận tình yêu thương từ cha mẹ và cũng không được yêu thương, chăm sóc chu đáo. Chúng có chung một nỗi bất hạnh là luôn luôn bị cấm đoán và bị đánh đòn. Trong hoàn cảnh đó, chưng cần một người mẹ, một người mẹ luôn luôn quan tâm, chăm sóc và dành cho chúng tình yêu thương. Và tình bạn đã thay thế cho tình mẫu tử, nó đã bù đắp phần nào cho nỗi bất hạnh của những đứa trẻ, Phải sống trong một xã hội như thế, một gia đình như thế nhưng chúng vẫn là những đứa trẻ ngoan ngoãn, trong sáng và nhân hậu. Không chỉ cùng hoàn cảnh mà chúng còn có những sở thích giống nhau, đó là thích nghe kể chuyện cổ tích. Dù biết những câu chuyện đó chẳng hề có thật nhưng chúng vẫn say sưa nghe kể. Chúng thường kể cho nhau nghe qua một ngách hẹp giữa bức tường nhà nhân vật tôi và hàng rào nhà Ốp-xi-an-ni-cốp. Và chúng còn thích chim, thích nghe tiếng chim hót nhưng lai sợ không được phép nuôi nên chúng cũng chẳng dám bắt nữa. Sống trong một xã hội phân chia đẳng cấp giàu – nghèo rõ ràng, tuy là hàng xóm nhưng gia đình nhân vật tôi và gia đình ba đứa trẻ không hề thân thiện. Người lớn cũng cấm những đứa trẻ không được nói chuyện và chơi với nhau. Nhưng bất chấp mọi cản trở trong quan hệ xã hội lúc bấy giờ, tình bạn thân thiết giữa những người bạn cùng cảnh ngộ đã nảy sinh và phát triển. Tình bạn mang lại cho chúng lòng dũng cảm và tâm hồn cao thượng. Nhân vật tôi dành cho ba đứa trẻ sự thông cảm với cuộc sống thiếu thốn tình thương và nỗi bất hạnh của chúng. Còn ba đứa trẻ mang lại cho nhân vật tôi một tình bạn ấm áp, chia sẻ những sở thích chung mà từ trước tới giờ nhân vật tôi chưa từng có được. Chúng đến với nhau, không bằng vật chất để chia sẻ mà bằng tình cảm trong sáng và nhân hậu. Dù có bị la mắng, bị đánh đòn cấm đoán, nhưng chúng vẫn là bạn của nhau. Đối với chúng thì tình bạn là tất cả, dù cho mọi rào cản của xã hội có được dựng lên thì cùng không thể nào ngăn cản tình bạn của chúng phát triển. Bằng cách kể chuyện nhẹ nhàng, hấp dẫn, nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc và nhiều cảm xúc cho người đọc. Tác giả đã kết hợp nhiều phương thức biểu đạt như tự sự, miêu tả.,. Việc kết hợp giữa hiện tại và cổ tích, cuộc sống đời thường được lồng vào thế giới cổ tích làm cho đoạn văn thêm gợi cảm, hấp dẫn đồng thời cũng thể hiện ước mơ của những đứa trẻ đáng thương. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng cách kể chuyện và miêu tả nội tâm nhân vật, khiến cho các nhân vật trong tác phẩm hiện lên với từng tính cách riêng, thể hiện một thế giới nội tâm riêng của mỗi con người, giúp cho người đọc có thể hiểu được nỗi bất hạnh và niềm khát khao được nhận tình yêu thương của những đứa trẻ. "Những đứa trẻ" không chỉ để lại cho người đọc lòng thương cảm đối với số phận bất hạnh của tuổi ấu thơ mà còn có tác dụng giáo dục sâu sắc về một tình ban trong sáng và nhân hậu. Đồng thời như một lời nói với người lớn: "Trẻ em đang mong ước và chờ đợi tình cảm yêu thương từ người lớn dành cho chúng” Qua câu chuyện “Những đứa trẻ", thế giới cổ tích như hiện ra, và đó cũng chính là mơ ước của nhưng đứa trẻ: mơ ước về người mẹ hiền từ và được sống trong một trái đất không còn sự buồn bã, mơ ước về một xã hội về một gia đình giàu lòng yêu thương con trẻ. Với ngòi bút kể chuyện tài tình của nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki, tình bạn thân thiết giữa ông hồi còn nhỏ với mấy đứa trẻ bên hàng xóm, bất chấp những cản trở trong quan hệ xã hội lúc bấy giờ được thuật lại một cách sinh động. Đó là một tình bạn trong sáng, ấm áp, hồn nhiên của tuổi thơ rất đáng trân trọng. Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 3 Đọc Những đứa trẻ ta nhận ra một đoạn văn thấm đẫm chất thơ, chất thơ của tuổi thơ, của tình thương và cả chất thơ của tài kể chuyện. Tuổi thơ mơ mộng Con người ta, ai chẳng có một thời thơ dại, những bước chân chập chững vào đời. Nhưng một khi đã lớn khôn, không phải chúng đều được nhớ. Phải là những kỉ niệm cay đắng hay ngọt ngào cứa vào tim gan, hoặc bay bổng hồn người, kí ức mới có thể không quên và trở thành hành trang đi suốt chặng đường dời còn lại. A-li-ô-sa và mấy đứa con nhà ông đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp nếu xét về hoàn cảnh sống, về thành phần xã hội thì rất khác nhau. Nhưng trong thế giới tuổi thơ, sự phân cách ấy chưa đủ để thành một bức tường vướng cản. Ấy là còn chưa nói, chúng có cùng một bất hạnh như nhau: mất mẹ, mất đi một nguồn sữa tình người lớn nhất trên đời. Vầng sáng tuổi thơ là thế giới chung của chúng. Chúng đến với nhau theo kiểu của trẻ thơ : không đi bằng cổng chính. Khi thì bọn trẻ nhà Ốp-xi-an-ni-cốp thấy thằng bé vắt vẻo trên cây, khi qua cái lỗ, cái ngách hẹp của hàng rào, chúng nói chuyện với nhau bằng cái tư thế không được đàng hoàng cho lắm: ngồi xổm hoặc quỳ xuống và cũng chỉ "khe khẽ với nhau" vì sợ ông đại tá bắt gặp. Nơi chúng trò chuyện với nhau cũng không phải là phòng khách, có khi chỉ là trên cái xe trượt tuyết đã hỏng để ở dưới mái nhà kho. Song những cuộc hẹn hò vụng trộm ấy là cả một thế giới thần tiên, cả bọn đều sung sướng, cảm động biết chừng nào, chúng vừa "ngắm nhìn nhau vừa nói chuyện rất lâu". Nội dung các câu chuyện rôm rả mà chúng nói với nhau chẳng có gì quan trọng, hoặc về "những con chim tôi bẫy được đang sống ra sao và nhiều chuyện trẻ con khác", về phép phù thuỷ làm cho người chết sông lại y như thật chứ không bịa đặt chút nào. Vì hầu hết là lấy từ kho cổ tích của bà ngoại nên chẳng may có chỗ nào quên thì đợi đấy, A-li-ô-sa chạy về nhà "hỏi lại bà tôi" đã. Những câu chuyện không biết chán hấp dẫn cả người kể lẫn người nghe, người kể thì say sưa, còn người nghe nếu có nghi ngờ thì lập tức được A-li-ô-sa giải thích và nhấn mạnh để không thể không tin. Cả ba anh em nhà Ốp-xi-an-ni-cốp, nhất là hai đứa em đều "im lặng lắng nghe". Thằng anh do đã có trí khôn, đã biết "mỉm cười", còn thằng bé nhất "mím chặt môi và phồng má lên" do bị căng thẳng. Tuổi thơ được chắp cánh bay bổng, bay vào không gian, chạy ngược thời gian vẻ cái "ngày trước, trước kia, đã có thời…" dường như thằng lớn nhà Ốp-xi-an-ni-cốp đã "sống trên trái đất này một trăm năm" chứ không phải là mười một năm như tuổi mẹ đẻ, cha sinh của nó. Tuổi thơ thiếu tình thương Sự gắn bó thân thiết giữa mấy đứa trẻ vì chúng có một tuổi thơ mơ mộng, cũng còn vì một tuổi thơ thiếu tình thương. Đầu tiên, việc mấy đứa trẻ nhà ông đại tá bị đánh đòn làm A-li-ô-sa "thấy khó mà tin". A-li-ô-sa cứ tưởng chỉ có mình mới bị đánh đòn vì không còn được ai che chở (mẹ bỏ đi lấy chồng), còn con nhà quan chức giàu sang làm sao phải chịu roi vọt. Mà nguyên nhân dẫn đến việc bị đánh đòn chi là đi chơi với con nhà thường dân hèn hạ, nghĩa là một nguyên nhân vô cớ, A-li-ô-sa cảm thấy một cơn giận bùng lên vì "tức thay cho chúng". Phải sau này, A-li-ô-sa mới thấu hiểu nỗi đau của mấy đứa bạn, một nỗi đau chính mình mới thấm thìa mà chúng chứa kịp biết, chưa kịp nói thành tên. "Thế các cậu có mẹ không ?" – câu hỏi bật ra như một bi vọng. Nhưng nghe mấy đứa trả lời, dứa thì nói là "không", đứa thì trả lời là "mẹ khác", A-li-ô-sa quả quyết "Mẹ khác thì gội là dì ghẻ", em đã tìm ngay ra đáp số. Hai tiếng khủng khiếp ấy dược nói ra, quả thật với mấy đứa con ông đại tá, như một tiếng sét bên tai. Chúng sợ hãi "ngồi sát vào nhau giống như những chú gà con" bơ vơ tội nghiệp. Còn A-li-ô-sa thì hiểu dì ghẻ trong những câu chuyện cổ tích của bà. Nỗi bất hạnh của những đứa trẻ thơ mất mẹ đang phải sống với người mẹ danh nghĩa chứ không phải "mẹ thật" của mình giúp A-li-ô-sa phát hiện ra cái điều bấy lâu chính bọn trẻ kia giữ kín là "chưa bao giờ chúng nói một lời nào về bố và về dì ghẻ". Hình ảnh người dì ghẻ dù chỉ là một ý nghĩ thoáng qua nhưng bóng tối của nó cũng đè nặng lên không khí vui tươi hồn nhiên của đám trẻ. Riêng đối với A-li-ô-sa, em hiểu từ những câu chuyện cổ tích của bà mình và nhất là từ thái độ, hành động độc đoán, gia trưởng của ngài đại tá và sự bất lực vô hồn của mấy đứa trẻ thơ – con ông – khi răm rắp phục tùng như "những con ngỗng ngoan ngoãn". Quyết định ở ông ta là không thể đổi thay nhất là đối với con mình, ngay cả đến A-li-ô-sa một người dưng xa lạ bị ông ta tóm cổ đuổi ra khỏi nhà làm em "sợ phát khóc". Còn những đứa con dễ mến của ông có vẻ dẹp dịu dàng, thơ ngây và cam chịu. Cặp mắt của thằng anh làm A-li-ô-sa nghĩ đến "những ngọn đèn trong nhà thờ" như một thứ ánh sáng hắt hiu bị cái tăm tối không cùng, mênh mông của toà nhà vây bủa. Trong bóng tối dày đặc vừa nói trên đây, không phải cha cố mà là chính ông già đại tá "với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu" là hiện thân của kẻ ác, một hung thần, một quỷ dữ Xa-tăng chính hiệu. Một biệt tài kể chuyện Tài kể chuyện của Go-rơ-ki không phải ở sự khéo léo dựng chuyện li kì. Tuy không mấy dụng công mà câu chuyện vẫn đậm đà, hấp dẫn. Nhà văn đưa ta vào một không khí trẻ thơ vô cùng thú vị. Trước hết, nó kích thích sự tò mò và trí tưởng tượng. Chẳng hạn như chuyện người chết có thể sống lại được không, thì trẻ con nhà ông đại tá bán tín bán nghi, còn A-li-ô-sa thề sống thề chết như mình đã trải qua, đã chứng kiến: có người chết mà không phải là chết thật. "Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là sống lại". Giọng A-li-ô-sa nói như đonh đóng cột thế kia làm sao có thể không tin. Hơn nữa, nó liên quan đến một người, người mẹ của bọn trẻ mà chính chúng đang khao khát ước mơ là làm sao sống lại. Câu chuyên cứ nửa thực nửa mơ, mờ mờ ảo ảo không còn một ranh giới nào để trí tưởng tượng con người tha hồ bay bổng. Trong thế giới kì lạ ấy, hình ảnh những bà tiên, ồng bụt hiện lên thật hiền lành phúc hậu. Nó đối lập với cái xấu xa, cái độc ác. Nó che chở và bao dung, nhất là đối với những trẻ thư bất hạnh trên đời. Hình ảnh về người bà của mỗi đứa cứ như lướt đi trên đầu lũ trẻ. Với A-li-ô-sa, người bà gần gũi hơn, cứ chạy ra chạy vào là gặp, gặp nụ cười nhân ái bao dung (khi nghe A-li-ô-sa cần đến những câu chuyện cổ tích, "bà tôi thường rất hài lòng"). Còn với mấy đứa con ông đại tá "bà tớ ngày xưa cũng rất tốt", nghĩa là cũng y như bà ngoại của A-li-ô-sa bây giờ, chi có điều bà không còn nữa, bà đã thuộc về chặng đời đẹp nhất "ngày trước", "trước kia"… nghĩa là đã vụt qua đi như một tia chớp mà bọn chứng phải nhớ tiếc, thẫn thờ. Tài kể chuyện của Go-rơ-ki còn thể hiện ở sự dẫn dắt, từ chuyện nuôi chim đến chuyện dì ghẻ của con ông đại tá. Việc nuôi chim thì trẻ con đứa nào chẳng ham ("Chim gì hót vui vui ấy. Để nhốt vào lồng"). Nhưng cái việc tưởng như cỏn con ấy phải được người cha cho phép, mà cha chúng thì dứt khoát chẳng bao giờ cho phép chúng nuôi. Thế còn người mẹ, người mẹ có thể chiều chúng, có thể đồng tình. Chúng tớ khồng còn mẹ. Chúng tớ có nhưng là mẹ khác. Mẹ khác thì gọi là dì ghẻ… Diễn biến của đối thoại dẫn dắt rất tự nhiên như chúng vốn là như thế. Rồi chuyện lối vào sân nhà ông đại tá của A-li-ô-sa là từ trên cao, từ "trên cây", em đã "nhảy dù" xuống theo lời mời của chính con ông đại tá. Nhưng lối ra của em thì thật "đàng hoàng", do ông đại tá nắm cổ áo lôi ra, mà ra bằng cổng chính với câu nói đầy hăm doạ: "Cấm không được đến nhà tao". Những chi tiết ấy thật bất ngờ, nhưng đối chiếu trong một hệ thống, tự nó tạo ra một ý nghĩa riêng, từ mạch ngầm của văn bản. Trong sự dẫn dắt ấy, những chân dung nhân vật hiện ra mỗi người một khác, như mấy đứa con ông đại tá. Một mặt chúng giống nhau như những giọt nước trong trẻo, ngây thơ, nhưng bản năng che chở đã hình thành ở hành động của hai đứa lớn hơn, một đứa đã biết "mỉm cười" nghe chuyện thần tiên, còn một đứa khi nghe những câu chuyện đầy tưởng tượng ấy, quàng tay lên vai em và ấn nó "cúi xuống". Nghệ thuật ấy cùng với nội dung đã tạo nên những trang viết tuyệt vời. Nó thật dung dị, cái dung dị của một tài năng. Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 4 Mắc xim Go- rơ- ki là một nhà văn nổi tiếng người Nga, ông có rất nhiều những sáng tác độc đáo, thu hút làm say mê bao nhiêu thế hệ độc giả không chỉ của nước Nga mà còn là độc giả trên toàn thế giới. Go- rơ – ki phản ánh hiện thực thông qua những trang thơ văn của mình một cách sâu sắc, toàn diện, chẳng những thế mà ông được coi là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nước Nga. Một trong số những tác phẩm của ông được đông đảo độc giả Việt Nam biết đến đó chính là tác phẩm “Thời thơ ấu”, trong đó có đoạn trích “Những đứa trẻ” được đưa vào chương trình của sách giáo khoa ngữ văn lớp 9. Nếu trong nền văn học Việt Nam có tác phẩm tự truyện của nhà văn Nguyên Hồng “Những ngày thơ ấu” kể về chuỗi ngày cay đắng, tủi nhục của nhà thơ khi còn là đứa trẻ thì trong nền văn học Nga cũng có tác phẩm nổi tiếng của Go- rơ – ki “Thời thơ ấu”. Cũng giống như “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng, “Ngày thơ ấu” của Mắc xim Go- rơ- ki là cuốn tự truyện về quãng thời gian thơ ấu cảu tác giả. Trong đó thì trích đoạn “Những đứa trẻ” là đoạn trích gây xúc động cho độc giả bởi tình bạn thân thiết cũng như tình yêu mến của cậu bé Aliosa với người bà của mình. Qua trích đoạn này người đọc cũng có thể phần nào hình dung ra được những kí ức thời thơ ấu của nhà thơ Go- rơ- ki. Mắc xim Go- rơ – ki có một tuổi thơ đầy tủi nhục, cay đắng khi còn rất nhỏ đã phải mồ côi cha mẹ, nếu như những đứa trẻ khác được sống trong vòng tay che chờ, quan tâm của bố mẹ thì cậu bé Go- rơ- ki không được may mắn như vậy. Cha mẹ mất, cậu bé phải sống với ông bà ngoại nhưng người ông ngoại lại vô cùng khắc nghiệt, luôn trừng phạt cậu bé bằng những trận đòn roi tàn nhẫn. Hai người cậu của Go- rơ- ki cũng không hề đái hoài, quan tâm gì đến sự tồn tại của cậu bé, mà chỉ lo tranh giành, đấu đá nhau để tranh chấp tài sản. Không chỉ những người thân của Go-rơ- ki thờ ơ, vô tình với cậu bé mà ngay cả những người hàng xóm cũng đa dạng, đủ thể loại người, đó là lão đại tá chỉ biết cậy quyền uy của chức vụ mà hống hách, ngang ngược, coi thường những người thuộc tầng lớp dưới. Đối với một đứa trẻ như Go- rơ- ki lúc bấy giờ mà nói cuộc sống của cậu vô cùng khắc nghiệt, sống trong một gia đình, giữa những người thân thích, máu mủ nhưng không hề quan tâm gì đến nhau, việc nuôi dưỡng cậu bé có lẽ cũng chẳng phải vì tình thương mà do trách nhiệm của họ phải như vậy. Người trong gia đình đã vậy, những người hàng xóm cũng lạnh lùng, coi thường lẫn nhau thì cuộc sống vốn vui vẻ, hồn nhiên của cậu bé không phải khắc nghiệt, vô vị lắm sao. Nhưng cũng rất may mắn vì cậu bé cũng có một người yêu thương, quan tâm thật lòng đến cậu bé, đó chính là bà ngoại, cũng là người thay mẹ chăm sóc, dưỡng dục cậu bé lên người. Ngoài ra còn có bác thợ hàng xóm, tuy cuộc sống không quá dư giả nhưng lại rất biết yêu thương, quan tâm đến những người xung quanh, và những đứa trẻ con của lão đại tá, chúng rất đáng yêu chứ không hống hách, kiêu ngạo như bố của chúng. Cũng chính những con người đó đã làm cho tuổi thơ của Go- rơ – ki trở nên tươi đẹp hơn, làm cho cuộc sống của cậu bé không chỉ có những đau thương, mất mát mà còn những kí ức tươi đẹp. Qua câu chuyện tuổi thơ của Go- rơ- ki ta có thể thấy được đây là một cậu bé rất hồn nhiên, thân thiện luôn luôn yêu đời, cởi mở và muốn kết giao bạn bè. Có lẽ cũng vì cuộc sống của cậu bé đã rất tẻ nhạt, vô vị nên cậu bé có những khát khao được yêu thương, khát khao có những những người bạn để sẻ chia. Trong một lần ngồi vắt vẻo trên cành cây cao, cậu bé Go- rơ-ki đã bắt gặp những đứa con của ông đại tá, chúng đang vui vẻ đùa nghịch, cậu bé đã ngắm nhìn với vẻ say mê, và trong tận sâu trong tâm hồn cậu bé khát khao được kết giao bạn bè với chúng, muốn cùng chúng chơi đùa thạt vui vẻ. Và như đã nói, cậu bé này rất vô tư, hồn nhiên, thích điều gì thì cậu bé sẽ hành động, không quan tâm đến sự khác biệt về đẳng cấp, địa vị. Go- rơ- ki đã huýt sáo, hú hét nhằm gây sự chú ý với những đứa trẻ, mong chúng quan tâm đến mình, nhưng chúng chỉ khẽ đưa mắt nhìn rồi thì thầm điều gì đó làm cậu bé ngượng ngùng mà tụt xuống đất. Chỉ đến khi cậu bé cùng hai người con của ông đại tá cứu đứa em út của chúng bị ngã xuống giếng thì tình cảm bạn bè của những đứa trẻ này chính thức bắt đầu. Tiếng gọi đầu tiên mà lũ trẻ nói với Go- rơ –ki “Xuống đây chơi với chúng tớ” là tiếng gọi của tình bạn, cũng là sự mở lòng của những đứa trẻ, chúng chấp nhận sự hiện diện của cậu bé trong các cuộc vui chơi của chúng. Nhưng sự thân thiết của những đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên đã vấp phải sự ngăn cản của người ông ngoại tàn nhẫn, đó là những trận đòn roi rơi xuống người cậu bé khi cậu bé không nghe lời ông mà tiếp tục chơi với chúng. Nhưng tình bạn của bốn đứa trẻ đã vượt qua mọi rào cản địa vị, sự ngăn cấm vô lí của người lớn. Đó là tình bạn trong sáng, cũng là những người để lại dấu ấn tươi đẹp trong kí ức tuổi thơ của nhà văn. “Những đứa trẻ” là trích đoạn hay nói về tình bạn ám áp của nhà thơ với những người bạn thời ấu thơ của mình. Đó là một tình bạn trong sáng, cảm động, chúng chơi với nhau vô tư, hồn nhiên, tránh xa được sự ảnh hưởng của những suy nghĩ phức tạp của người lớn. Cũng nhờ sự yêu thương của bà ngoại, những người bạn thân thiết mà nhà văn Go- rơ – ki có những điểm sáng trong kí ức của mình, không bị những đen tối của hoàn cảnh làm cho gục ngã, hay bị ám ảnh. Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 5 Bộ ba tự truyện của Go-rơ-ki (Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi) là những trang văn có chỗ thấm đầy lệ, có nơi có những tiếng thở dài, cũng có nụ cười tiếng hát, có những dặm đường đầy thử thách của một chú bé, một chàng trai, có những tấm lòng tràn đầy nhân hậu mênh mông. Đọc chương 9 tập Thời thơ ấu, dõi theo hành trình của cậu bé Pê-scốp, lòng chúng ta xôn xao rung động trước vẻ đẹp một tâm hồn thơ bé. Tình bạn, tình yêu bà của bé A-li-ô-sa Pê-scốp nhiều rung động, chứa chan. 1. Một tình bạn trong sáng tươi đẹp. Pê-scốp đã sớm nếm trải nhiều cay đắng, bất hạnh. Lên mười tuổi thì cả cha lẫn mẹ đều lần lượt qua đời. Ông ngoại dữ đòn. Chỉ có bà ngoại dịu hiền, yêu thương đứa cháu côi cút hết mực. Những chuyện cổ tích bà kể, những bài thánh ca bà hát như hương hoa ngào ngạt ướp vào tâm hồn tuổi thơ A-li-ô-sa. Cháu chỉ còn biết tìm đến thế giới loài chim, cháu bẫy chim, nuôi chim để nghe chim hót. Khao khát tình thương và tình bạn. Nhà nghèo, ít được đến trường nên A-li-ô-sa ngồi vắt vẻo trên cành cây nhìn sang một cái sân rộng, có lúc phải nhìn qua khe hở hàng rào nhìn ba anh em nhà láng giềng chơi. Khuôn mặt tròn, mắt xám với màu áo xanh cùng những trò chơi lạ của ba anh em đã làm chú ta rất thích. Chúng chơi rất thú vị, vui vẻ và không bao giờ cãi nhau. A-li-ô-sa thích cách ăn vận, thích thái độ săn sóc của chúng đối với nhau… Mỗi khi đứa em nhỏ, một thằng bé "ngộ nghĩnh và lanh lợi" bị ngã thì hai thằng anh lại cười vui, rồi xúm vào đỡ em dậy, hoặc lấy khăn tay, lấy lá cây ngưu bàng lau các ngón tay và quần cho em. Tiếng nói của đứa anh thứ hai, nói một cách hiền hậu “Em lóng ngóng quá” làm cho A-li-ô-sa chú ý. Cả 3 anh em đều khỏe mạnh, rất nhanh nhẹn, chan hòa yêu thương, không bao giờ cãi nhau hoặc gian lận cả! A-li-ô-sa đã ngắm nhìn say mê, tưởng như chú đang cùng chơi vui vẻ với chúng. Chú phải leo lên cành cây, lúc thì “huýt sáo gọi chúng”, lúc thì “hét lên hoặc cười thật to” để 3 anh em nhà nọ nhìn thấy…, chúng thì thầm bàn bạc gì với nhau, chúng nói khẽ với nhau điều gì,… nên đã làm cho A-li-ô-sa “ngượng quá bèn tụt xuống đất''.. Có một cái gì ngăn cách hai thế giới tâm hồn tuổi thơ, hay là hàng rào, hay là… điều đó làm cho A-li-ô-sa cảm thấy tủi và “cô đơn” nhiều lắm! Go-rơ-ki đã kể lại một cách tỉ mỉ kỉ niệm xa xưa ấy, đã làm cho mỗi chúng ta cảm động nhớ lại những chuyện vui buồn thời bé thơ, nhớ lại những kỉ niệm ấm áp về tình bạn dưới mái trường tiểu học ngày nào… Một cơ hội đã đến để 3 anh em nhà kia mời A-li-ô-sa cùng sang chơi. Một lần chơi trò ú tim, đứa em út non nót ngây thơ và khờ dại đã ngồi vào gầu và rơi xuống giếng. A-li-ô-sa chợt nhìn thấy, nhảy phắt xuống sân và kêu to: “Ngã xuống giếng rồi!”. Chú đã đến kịp thời để cùng hai đứa anh kéo thằng em út lên, thoát hiểm. Thằng bé ướt sũng, bàn tay rớm máu, “mặt tái xanh nhưng vẫn mỉm cười”. Chúng bàn nhau cách nói dối “em ngã vào vũng nước”. Trước lúc đưa em về nhà, thằng anh lớn đã “gật đầu” và "chìa tay” cho A-li-ô-sa và nói: "Cậu chạy đến nhanh lắm!”. Sự việc diễn ra quá nhanh, đến nỗi A-li-ô-sa lúc nhìn lại cành cây mà từ đó, chú nhảy xuống cứu bạn “ vẫn còn rung rung và một chiếc lá vàng rụng xuống". Có thể nói, sự nhanh nhẹn và tấm lòng của A-li-ô-sa trong việc ứng cứu đứa bé là một “chiến công”, một thử thách cho tình bạn của chú với anh em nhà nọ một tuần sau đó. Hàng rào ngăn cách vô hình đã bị lũ trẻ phá tung. Và chỉ mấy ngày sau, ba anh em lại kéo nhau ra sân chơi, thằng anh lớn nhìn thấy A-li-ô-sa trên cây đã thân mật gọi: “Xuống đây chơi với chúng tớ”. Đó là tiếng gọi của bạn bè. Là niềm thương yêu tin cậy. Là phần thưởng, là giây phút hạnh phúc nhất đối với A-li-ô-sa mà chú mong đợi bấy nay. Với tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, bốn đứa bé như bốn con chim non ríu rít chơi với nhau. A-li-ô-sa hỏi chúng nó có bị đánh không. Chúng trao đổi với nhau về chuyện bắt chim nuôi chim, về chim bạch yến… Chúng nói với nhau về mẹ và dì ghẻ. Cả bốn đứa bé đều cùng cảnh ngộ “mồ côi mẹ", sự đồng cảm về cảnh ngộ đã gắn bó tâm hồn tuổi thơ. A-li-ô-sa kể cho chúng nghe Chuyên mụ gì ghẻ phù thủy… Bốn đứa bé “ngồi sát vào nhau như những chú gà con”. Đây là những khoảnh khắc thần tiên của chúng. Thằng bé nhất thì “mím chặt môi và phồng má lên”. Một đứa thì “chống khuỷu tay lên đầu gối…” và quàng lên vai em nó. Chúng im lặng lắng nghe cổ tích. Ở đời, xưa và nay, tình bạn luôn luôn được thử thách qua cảnh giàu nghèo, sang hèn, lúc thành đạt, vv… Ở người lớn và trẻ em có tình bạn thủy chung, có thứ tình bạn “nắng sớm, chiều mưa”, v.v… Bốn đứa trẻ này đang chơi thân với nhau, bỗng người lớn đã xông vào “phá đám”. Lão đại tá già xuất hiện với bô ria trắng, đầu đội chiếc mũ xù lông đã thô bạo "nắm lấy vai” và đuổi A-li-ô-sa ra khỏi cổng với lời đe dọa: “Cấm không được đến chỗ tao!”. Rồi trận đòn của ông ngoại. Sự đặt điều mách lẻo, sự để ý "theo dõi” của bác Piốt. Ông ngoại đã nghiêm cấm cháu không được chơi với mấy đứa con lão đại tá, v.v… nhưng tuổi thơ và tình bạn trong sáng của tuổi thơ, ai có thể ngăn cấm và li gián được? Vì thế A-li-ô-sa vẫn tiếp tục chơi với 3 đứa bé kia và quan hệ giữa chúng nó “càng ngày càng trờ nên thích thú”. Chẳng có “ải quan”, “bức tường thành” nào ngăn cách được bốn đứa trẻ! Mọi định kiến giai cấp, mọi sự ngăn cấm và đòn roi đối với chúng nó chẳng có nghĩa lý gì. Giữa bức tường và hàng rào nhà ông đại tá, có một cây du, một cây bồ đề và một bụi hương mộc rậm rạp, “một lỗ hổng hình bán nguyệt” đã được bí mật khoét ra. Chính tại đây ba đứa con trai đại tá, một đứa đứng canh, hai đứa “ngồi xổm hoặc quỳ nói chuyện khe khẽ với nhau”. Chúng nói về cuộc sống buồn, về những con chim, nhiều chuyện trẻ con khác,… Chúng nghe A-li-ô-sa kể chuyện cổ tích. Có một chi tiết rất thú vị là mỗi lần kể chuyện, nửa chừng quên mất chỗ nào, A-li-ô-sa lại chạy về hỏi bà… Chúng vẫn chơi vui, vẫn tâm tình, vẫn chan hòa trong niềm thơ ấu cổ tích. Một tình bạn trong sáng, hồn nhiên. 2. Và tình yêu thương của bà. Ba anh em con nhà đại tá mồ côi mẹ, chịu cảnh dì ghẻ, chúng lại không còn bà. Còn A-li-ô-sa, tuy thỉnh thoảng vẫn bị ông ngoại đánh đòn, nhưng em còn có bà ngoại. Bà là dòng sữa cổ tích ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn em. Bà là chỗ dựa tinh thần bảo vệ che chở cháu khi bị người lớn đặt điều. Ta hãy nghe bà trả lời dứt khoát bác Piốt: “Ối chà, bác Piốt, tự bác đạt điều ra thì có, nó không chửi bác như vậy đâu!". Mỗi lần A-li-ô-sa quên một tình tiết nào đó trong cổ tích, chạy về hỏi bà, em đã làm cho bà “rất hài lòng”. Chú đã tự hào kể bao nhiêu chuyện tốt đẹp về bà ngoại mình, đã làm cho 3 anh em nhà đại tá xúc động. Cả 3 anh em đều buồn và thằng anh lớn đã thở dài nói: “Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày tnrớc cũng rất tốt”. Đó là một câu nói giản dị của một em bé đã trải qua nhiều bất hạnh. Những bạn nhỏ nào đó đã từng được nghe bà ru, bà kể chuyện cổ tích, từng được bà ôm ấp gãi lưng cho? Những bạn nhỏ nào đó trong cơn mơ từng thấy bà hiền hậu đang cầm “quả thị Tấm Cám" trên tay? Và những ai đó khi cất tiếng chào đời chưa một lần nào được nhìn thấy mái tóc bà, nụ cười hiền hậu của bà sẽ xúc động biết bao khi nghe một đứa bé “thở dài" nói trong ngao ngán "bà mình ngày trước cũng rất tốt”… Có thể nói tình bạn và tình yêu thương bà là những tình cảm đậm đà, trong sáng thiêng liêng của tuổi thơ. Đọc những dòng tự thuật trên đây, ta thấy chất thơ dào dạt trên trang văn của Go-rơ-ki. Ta biết yêu bà, yêu bạn. Ta lớn lên và được sống tin cậy trong tình yêu thương mênh mông. Thiếu tình thương, tuổi thơ buồn lắm vì phải trải qua những tháng ngày u ám cô đơn. Từ khi có bạn, được chơi trong tình bạn những em bé mồ con như có ánh nắng đem lại sự ấm áp cho tâm hồn. Go-rơ-ki đã nói rất cảm động điều đó. Tính chân thực, hồn nhiên và truyền cảm tạo nên vẻ đẹp văn chương đích thực của Thời thơ ấu. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Văn mẫu lớp 9Đánh giá bài viết Có thể bạn quan tâm?Kể lại một câu chuyện đáng nhớ của bản thân – Văn mẫu lớp 9Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều – Văn mẫu lớp 9Bình luận câu tục ngữ “Có công mài sắt có ngày nên kim” – Văn mẫu lớp 9Phân tích tác phẩm Đấu tranh cho một thế giới hòa bình – Văn mẫu lớp 9Phân tích bài thơ Mây và sóng – Văn mẫu lớp 9Phân tích tác phẩm Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten – Văn mẫu lớp 9Phân tích tác phẩm Bố của Xi-mông – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về di tích lịch sử – Văn mẫu lớp 9

Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 1

Tác giả Mác-xim Gor-ki là một nhà văn hiện thực nổi tiếng của nước Nga trong thời kỳ Xô Viết. Ông đã để lại cho nhân loại cũng như cho nền văn học Nga nhiều tác phẩm đình đám. Trong đó cuốn hồi kí “Thời thơ ấu” là một tác phẩm tiêu biểu tự kể về thời nhỏ của chính tác giả.

Trích đoạn “Những đứa trẻ” là đoạn trích nhiều xúc động, thể hiện tình cảm thân thiết, tình yêu của cậu bé Aliôsa với bà của mình. Thông qua đoạn trích này tác giả đã tái hiện lại một tuổi thơ nhiều sóng gió, nhiều biến động của mình.

Aliosa là một cậu bé bất hạnh, cuộc đời em trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Cha mẹ chẳng may qua đời từ khi Aliosa còn rất nhỏ, để lại mình em đơn độc giữa dòng đời nhiều sóng gió. Cậu bé ở với ông bà ngoại, người thân còn lại của em. Nhưng ông ngoại em lại là người nóng nảy và có khuynh hướng bạo lực. Ông thường xuyên đánh cậu bé bằng những trận đòn vô cùng tàn ác. Cậu bé có hai người cậu, và hy vọng hai người cậu này sẽ làm gì đó cho mình. Nhưng thật đáng buồn hai người cậu của em chỉ quan tâm tới gia sản của ông bà ngoại, chứ chẳng hề bận tâm tới sự tồn tại của cậu bé.

Nhưng bù lại tuổi thơ của em vẫn còn một người thân thương yêu thật lòng, luôn quan tâm lo lắng cho em đó chính là bà ngoại của em. Bà lúc nào cũng dành cho em những thứ quý giá nhất. Bên cạnh đó, có những đứa trẻ con của một vị đại tá hách dịch, hàng xóm nhà bà em, chúng chính là bạn cũng là niềm vui cho tuổi thơ dữ dội của cậu bé được an ủi phần nào.

Mở đầu đầu đoạn trích tác giả kể về sự gặp gỡ tình cờ của cậu bé Aliosa với những đứa trẻ con hà đại tá, khi cậu bé đang ngồi đu mình trên một cành cây cao. Cậu bé say mê nhìn những đứa trẻ và ước mơ được chơi chung với chúng. Và để gây sự chú ý, muốn bọn trẻ kia quay sang nhìn mình Aliosa đã thổi sáo ầm ĩ, rồi gây tiếng động lớn nhưng mấy đứa trẻ con nhà đại tá chỉ nhìn cậu bé bằng ánh mắt thăm dò và thì thầm gì đó với nhau khiến cho Aliosa cảm thấy có chút bối rối, xen lẫn ngượng ngùng, xấu hổ. Cậu bé cảm thấy không ổn chút nào nên vội vàng tụt khỏi cành cây để thoát khỏi những cái nhìn kỳ lạ của bọn trẻ kia.

Rồi một lần Aliosa đã có cơ hội để có thể tiếp cận lũ trẻ con nhà đại tá. Lần đó đứa em út con nhà đại tá bị ngã xuống giếng Aliosa đã cùng hai người anh của nó cứu nó thoát khỏi chiếc giếng đó, khiến cho bọn trẻ rất nể phục và hàng rào ngăn cản chúng đã được tháo bỏ, “Xuống đây chơi với tớ” đó là lời mời mà cậu bé Aliosa mong chờ từ rất lâu. Cũng kể từ đây, Aliosa và bọn trẻ chơi với nhau vô cùng thân thiết xóa tan mọi rào cản, nghi ngại. Chúng ngồi bên nhau cùng nghe Aliosa kể chuyện cổ tích.

Tất cả đều rất vui vẻ háo hức, đó là những khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời của cậu bé Aliosa. Nhưng những giờ phút hạnh phúc đó nhanh chóng tan biến, như mưa bóng mây, lão đại tá trở về nhà và nhìn thấy Aliosa liền giận dữ đuổi cậu bé và cấm từ nay không cho chú bé được qua lại với con mình. Sau đó, Aliosa còn bị ông ngoại đánh đòn, khiến chú vô cùng đau khổ. Nhưng tình bạn giữa cậu bé và những đứa trẻ con nhà đại tá vô cùng trong trẻo, thánh thiện nên không có gì ngăn trở được chúng đến với nhau. Bọn trẻ vẫn lén lút âm thầm trò chuyện.

Tình bạn của bọn chúng không vì ngăn trở mà xa cách, ngược lại còn ngày càng thân thiết hơn. Để tiện cho việc qua lại, chúng đã âm thầm khoét một cái lỗ giữa hàng rào của hai nhà để đi lại cho tiện. Chúng còn tổ chức thay phiên nhau canh trực tên đại tá trong lúc nghe Aliosa kể chuyện cổ tích, nếu lão đại tá về thì sẽ báo để cậu bé trốn chui qua lỗ hàng rào chạy về nhà. Những chú chim nhỏ thật tội nghiệp, một tình bạn ngây thơ, trong sáng lại bị chia cắt, cấm cản bởi thói đời phân chia giai cấp sang- hèn, bởi sự tính toán, mưu mô của người lớn.

Bằng lối viết chân thật, giản dị, xúc động tác giả đã kể lại quãng đời tuổi thơ của mình với những lời văn sâu sắc, vừa xen lẫn sự tủi nhục, buồn khổ vừa có sự ngây thơ, trong sáng. Tình bạn của ông là một dấu ấn khó quên đối với người đọc khi xem cuốn hồi ký này.

Bên cạnh những người bạn thân thiết, Aliosa còn may mắn có thêm tình thương của bà ngoại. Người ruột thịt duy nhất yêu thương và lo lắng cho em thật lòng. Bà chính là niềm tin, là chỗ dựa tâm hồn cho cậu bé mỗi khi em gặp khó khăn trong cuộc sống. Tình yêu của bà giống như làn gió mát, nguồn sữa ngọt ngào thổi vào đời em mỗi khi em gặp đớn đau, bất hạnh.

“Thời thơ ấu” là một tác phẩm hay để lại nhiều cảm xúc dành cho người đọc, Qua những lời kể, lời tự sự của chính tác giả, người đọc người nghe như thấm thía hơn tình cảm trong trẻ, ngây thơ của một cậu bé dành cho bà ngoại của mình. Qua những câu văn giản dị, mộc mạc, nhưng chân thành chúng ta biết về một tình bạn hồn nhiên, cao quý vượt qua mọi rào cản định kiến của xã hội, mang lại niềm tin, hy vọng cho những mảnh đời trẻ thơ bất hạnh, kém may mắn trong cuộc sống đó chính ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà tác phẩm đã để lại trong lòng mỗi chúng ta.

Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 2

Đoạn trích "Những đứa trẻ" của nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki đã khiến cho chúng ta phải rung cảm trước hoàn cảnh của những đứa trẻ đáng yêu, phải sống trong sự thiếu thốn tình cảm gia đình và cũng khiến cho chúng ta cảm phục về tình bạn trong sáng của chúng.

Đoạn trích "Những đứa trẻ" trích trong tác phẩm "Thời thơ ấu" được Mác-xim Go-rơ- ki viết vào những năm 1913 – 1914, cũng là những năm tháng sự phân biệt giàu nghèo trong xã hội Nga trở nên gay gắt. Tác phẩm mang tính chất tự thuật về chính cuộc đời của tác giả và những người hàng xóm, người thân trong gia đình ông.

Đoạn trích là bức tranh sinh động về cuộc đời và số phận của những đứa trẻ và tình bạn trong sáng của chúng, Những nhân vật trong tác phẩm không được tác giả đặt tên, nó giúp cho bài văn mang tính chất khái quát hơn và đồng thời cũng làm cho câu chuyện mang đậm màu sắc cổ tích.

Số phận của những đứa trẻ gợi lên trong người đọc lòng thương cảm trước hoàn cảnh khó khăn của chúng. Sống trong một xã hội phân biệt đẳng cấp giàu – nghèo rõ ràng, nhân vật tôi và ba đứa trẻ không có điều kiện để phát triển một tình bạn. Nhân vật tôi cũng như ba đứa trẻ nhà ông đại tá có chung một hoàn cảnh đó là không được nhận tình yêu thương từ cha mẹ. Khác với những đứa trẻ bình thường, nhân vạt tôi phải sống chung với ông bà ngoại vì bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng khác. Đã thế ông ngoại còn là một người khó tính nên nhân vật tôi thương bị đe doạ và bị đánh đòn một cách oan uổng. Còn ba đứa trẻ nhà ông đại tá thì mồ côi mẹ từ nhỏ, bố lấy vợ khác, chúng phải sống với bố và dì ghẻ – là những người mà chẳng bao giờ thấy chúng kể cho nhân vật tôi nghe. Chỉ biết rằng, bố của chúng là một người khó tính, hách dịch, luôn luôn cấm đoán chúng mọi thứ, nhất là chơi với nhân vật tôi và còn luôn đánh đòn chúng nữa. Chúng đều là những đứa trẻ đáng thương, không được nhận tình yêu thương từ cha mẹ và cũng không được yêu thương, chăm sóc chu đáo. Chúng có chung một nỗi bất hạnh là luôn luôn bị cấm đoán và bị đánh đòn. Trong hoàn cảnh đó, chưng cần một người mẹ, một người mẹ luôn luôn quan tâm, chăm sóc và dành cho chúng tình yêu thương.

Và tình bạn đã thay thế cho tình mẫu tử, nó đã bù đắp phần nào cho nỗi bất hạnh của những đứa trẻ, Phải sống trong một xã hội như thế, một gia đình như thế nhưng chúng vẫn là những đứa trẻ ngoan ngoãn, trong sáng và nhân hậu. Không chỉ cùng hoàn cảnh mà chúng còn có những sở thích giống nhau, đó là thích nghe kể chuyện cổ tích. Dù biết những câu chuyện đó chẳng hề có thật nhưng chúng vẫn say sưa nghe kể. Chúng thường kể cho nhau nghe qua một ngách hẹp giữa bức tường nhà nhân vật tôi và hàng rào nhà Ốp-xi-an-ni-cốp. Và chúng còn thích chim, thích nghe tiếng chim hót nhưng lai sợ không được phép nuôi nên chúng cũng chẳng dám bắt nữa. Sống trong một xã hội phân chia đẳng cấp giàu – nghèo rõ ràng, tuy là hàng xóm nhưng gia đình nhân vật tôi và gia đình ba đứa trẻ không hề thân thiện. Người lớn cũng cấm những đứa trẻ không được nói chuyện và chơi với nhau. Nhưng bất chấp mọi cản trở trong quan hệ xã hội lúc bấy giờ, tình bạn thân thiết giữa những người bạn cùng cảnh ngộ đã nảy sinh và phát triển. Tình bạn mang lại cho chúng lòng dũng cảm và tâm hồn cao thượng. Nhân vật tôi dành cho ba đứa trẻ sự thông cảm với cuộc sống thiếu thốn tình thương và nỗi bất hạnh của chúng. Còn ba đứa trẻ mang lại cho nhân vật tôi một tình bạn ấm áp, chia sẻ những sở thích chung mà từ trước tới giờ nhân vật tôi chưa từng có được. Chúng đến với nhau, không bằng vật chất để chia sẻ mà bằng tình cảm trong sáng và nhân hậu. Dù có bị la mắng, bị đánh đòn cấm đoán, nhưng chúng vẫn là bạn của nhau. Đối với chúng thì tình bạn là tất cả, dù cho mọi rào cản của xã hội có được dựng lên thì cùng không thể nào ngăn cản tình bạn của chúng phát triển.

Bằng cách kể chuyện nhẹ nhàng, hấp dẫn, nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc và nhiều cảm xúc cho người đọc. Tác giả đã kết hợp nhiều phương thức biểu đạt như tự sự, miêu tả.,. Việc kết hợp giữa hiện tại và cổ tích, cuộc sống đời thường được lồng vào thế giới cổ tích làm cho đoạn văn thêm gợi cảm, hấp dẫn đồng thời cũng thể hiện ước mơ của những đứa trẻ đáng thương. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng cách kể chuyện và miêu tả nội tâm nhân vật, khiến cho các nhân vật trong tác phẩm hiện lên với từng tính cách riêng, thể hiện một thế giới nội tâm riêng của mỗi con người, giúp cho người đọc có thể hiểu được nỗi bất hạnh và niềm khát khao được nhận tình yêu thương của những đứa trẻ.

"Những đứa trẻ" không chỉ để lại cho người đọc lòng thương cảm đối với số phận bất hạnh của tuổi ấu thơ mà còn có tác dụng giáo dục sâu sắc về một tình ban trong sáng và nhân hậu. Đồng thời như một lời nói với người lớn: "Trẻ em đang mong ước và chờ đợi tình cảm yêu thương từ người lớn dành cho chúng” Qua câu chuyện “Những đứa trẻ", thế giới cổ tích như hiện ra, và đó cũng chính là mơ ước của nhưng đứa trẻ: mơ ước về người mẹ hiền từ và được sống trong một trái đất không còn sự buồn bã, mơ ước về một xã hội về một gia đình giàu lòng yêu thương con trẻ.

Với ngòi bút kể chuyện tài tình của nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki, tình bạn thân thiết giữa ông hồi còn nhỏ với mấy đứa trẻ bên hàng xóm, bất chấp những cản trở trong quan hệ xã hội lúc bấy giờ được thuật lại một cách sinh động. Đó là một tình bạn trong sáng, ấm áp, hồn nhiên của tuổi thơ rất đáng trân trọng.

Phân tích đoạn trích Những đứa trẻ – Bài số 3

Đọc Những đứa trẻ ta nhận ra một đoạn văn thấm đẫm chất thơ, chất thơ của tuổi thơ, của tình thương và cả chất thơ của tài kể chuyện.

Tuổi thơ mơ mộng Con người ta, ai chẳng có một thời thơ dại, những bước chân chập chững vào đời. Nhưng một khi đã lớn khôn, không phải chúng đều được nhớ. Phải là những kỉ niệm cay đắng hay ngọt ngào cứa vào tim gan, hoặc bay bổng hồn người, kí ức mới có thể không quên và trở thành hành trang đi suốt chặng đường dời còn lại. A-li-ô-sa và mấy đứa con nhà ông đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp nếu xét về hoàn cảnh sống, về thành phần xã hội thì rất khác nhau. Nhưng trong thế giới tuổi thơ, sự phân cách ấy chưa đủ để thành một bức tường vướng cản. Ấy là còn chưa nói, chúng có cùng một bất hạnh như nhau: mất mẹ, mất đi một nguồn sữa tình người lớn nhất trên đời. Vầng sáng tuổi thơ là thế giới chung của chúng. Chúng đến với nhau theo kiểu của trẻ thơ : không đi bằng cổng chính. Khi thì bọn trẻ nhà Ốp-xi-an-ni-cốp thấy thằng bé vắt vẻo trên cây, khi qua cái lỗ, cái ngách hẹp của hàng rào, chúng nói chuyện với nhau bằng cái tư thế không được đàng hoàng cho lắm: ngồi xổm hoặc quỳ xuống và cũng chỉ "khe khẽ với nhau" vì sợ ông đại tá bắt gặp. Nơi chúng trò chuyện với nhau cũng không phải là phòng khách, có khi chỉ là trên cái xe trượt tuyết đã hỏng để ở dưới mái nhà kho. Song những cuộc hẹn hò vụng trộm ấy là cả một thế giới thần tiên, cả bọn đều sung sướng, cảm động biết chừng nào, chúng vừa "ngắm nhìn nhau vừa nói chuyện rất lâu". Nội dung các câu chuyện rôm rả mà chúng nói với nhau chẳng có gì quan trọng, hoặc về "những con chim tôi bẫy được đang sống ra sao và nhiều chuyện trẻ con khác", về phép phù thuỷ làm cho người chết sông lại y như thật chứ không bịa đặt chút nào. Vì hầu hết là lấy từ kho cổ tích của bà ngoại nên chẳng may có chỗ nào quên thì đợi đấy, A-li-ô-sa chạy về nhà "hỏi lại bà tôi" đã. Những câu chuyện không biết chán hấp dẫn cả người kể lẫn người nghe, người kể thì say sưa, còn người nghe nếu có nghi ngờ thì lập tức được A-li-ô-sa giải thích và nhấn mạnh để không thể không tin. Cả ba anh em nhà Ốp-xi-an-ni-cốp, nhất là hai đứa em đều "im lặng lắng nghe". Thằng anh do đã có trí khôn, đã biết "mỉm cười", còn thằng bé nhất "mím chặt môi và phồng má lên" do bị căng thẳng. Tuổi thơ được chắp cánh bay bổng, bay vào không gian, chạy ngược thời gian vẻ cái "ngày trước, trước kia, đã có thời…" dường như thằng lớn nhà Ốp-xi-an-ni-cốp đã "sống trên trái đất này một trăm năm" chứ không phải là mười một năm như tuổi mẹ đẻ, cha sinh của nó.

Tuổi thơ thiếu tình thương Sự gắn bó thân thiết giữa mấy đứa trẻ vì chúng có một tuổi thơ mơ mộng, cũng còn vì một tuổi thơ thiếu tình thương. Đầu tiên, việc mấy đứa trẻ nhà ông đại tá bị đánh đòn làm A-li-ô-sa "thấy khó mà tin". A-li-ô-sa cứ tưởng chỉ có mình mới bị đánh đòn vì không còn được ai che chở (mẹ bỏ đi lấy chồng), còn con nhà quan chức giàu sang làm sao phải chịu roi vọt. Mà nguyên nhân dẫn đến việc bị đánh đòn chi là đi chơi với con nhà thường dân hèn hạ, nghĩa là một nguyên nhân vô cớ, A-li-ô-sa cảm thấy một cơn giận bùng lên vì "tức thay cho chúng". Phải sau này, A-li-ô-sa mới thấu hiểu nỗi đau của mấy đứa bạn, một nỗi đau chính mình mới thấm thìa mà chúng chứa kịp biết, chưa kịp nói thành tên. "Thế các cậu có mẹ không ?" – câu hỏi bật ra như một bi vọng. Nhưng nghe mấy đứa trả lời, dứa thì nói là "không", đứa thì trả lời là "mẹ khác", A-li-ô-sa quả quyết "Mẹ khác thì gội là dì ghẻ", em đã tìm ngay ra đáp số. Hai tiếng khủng khiếp ấy dược nói ra, quả thật với mấy đứa con ông đại tá, như một tiếng sét bên tai. Chúng sợ hãi "ngồi sát vào nhau giống như những chú gà con" bơ vơ tội nghiệp. Còn A-li-ô-sa thì hiểu dì ghẻ trong những câu chuyện cổ tích của bà. Nỗi bất hạnh của những đứa trẻ thơ mất mẹ đang phải sống với người mẹ danh nghĩa chứ không phải "mẹ thật" của mình giúp A-li-ô-sa phát hiện ra cái điều bấy lâu chính bọn trẻ kia giữ kín là "chưa bao giờ chúng nói một lời nào về bố và về dì ghẻ". Hình ảnh người dì ghẻ dù chỉ là một ý nghĩ thoáng qua nhưng bóng tối của nó cũng đè nặng lên không khí vui tươi hồn nhiên của đám trẻ. Riêng đối với A-li-ô-sa, em hiểu từ những câu chuyện cổ tích của bà mình và nhất là từ thái độ, hành động độc đoán, gia trưởng của ngài đại tá và sự bất lực vô hồn của mấy đứa trẻ thơ – con ông – khi răm rắp phục tùng như "những con ngỗng ngoan ngoãn". Quyết định ở ông ta là không thể đổi thay nhất là đối với con mình, ngay cả đến A-li-ô-sa một người dưng xa lạ bị ông ta tóm cổ đuổi ra khỏi nhà làm em "sợ phát khóc". Còn những đứa con dễ mến của ông có vẻ dẹp dịu dàng, thơ ngây và cam chịu. Cặp mắt của thằng anh làm A-li-ô-sa nghĩ đến "những ngọn đèn trong nhà thờ" như một thứ ánh sáng hắt hiu bị cái tăm tối không cùng, mênh mông của toà nhà vây bủa. Trong bóng tối dày đặc vừa nói trên đây, không phải cha cố mà là chính ông già đại tá "với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu" là hiện thâ

0