29/01/2018, 21:20

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Văn mẫu lớp 9

Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 4 5 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu ...

Nội dung bài viết1 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 1 2 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 2 3 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 3 4 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 4 5 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 5 Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 1 Truyện Kiều là một trong những tác phẩm bất hủ đã đi sâu vào lòng con người như một áng văn chương đan xen giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ở áng văn này, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã phác họa lên một bức tranh hữu tình, nên thơ với nàng Kiều “tài hoa bạc mệnh” và những nhân vật được đúc tả từ chính những con người trong thế giời hiện thực vô cùng sống động nhưng cũng đầy ai oán. Ai oán một chế độ xã hội bất công, nơi mà con người ta bị dồn nén đến bức đường cùng nhưng ở đó vẫn còn những tia sáng nhỏ nhoi, rực rỡ trong màn đêm đen tối, mù mịt. Trong đoạn trích “Kiểu ở lầu Ngưng Bích”, nhà văn Nguyễn Du đã khắc tả thành công nỗi nhớ người yêu, nhớ gia đình nhưng cũng xót thương cho chính thân phận hẩm hiu và dự cảm về một tai họa đang rình rập ở phía trước. Cảm xúc hỗn loạn, đầy khắc khoải, trăn trở của nàng Kiều đã tạo nên nét độc đáo cho đoạn trích này. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn thứ 2 của phần “Lưu lạc và gia biến”. Trong đoạn trích, tâm trạng của Thúy Kiều như đan xen giữa: buồn – cô đơn, nỗi nhớ người yêu, nhớ gia đình và lo lắng cho số phận của mình. Tác giả đã thâm nhập vào nhân vật để cùng đồng cảm, cùng hoang mang và lo sợ với Thúy Kiều. Đó là sự thương xót với nhân vật nhưng đồng thời là thể hiện cái nhìn ngợi ca đầy chân trọng, đó như một lời khen, một tiếng yêu thương mà tác giả đã dành cho nhân vật. Trong tiếng nức nở của Thúy Kiều còn có cả tiếng khóc ai oán, bi thương. Bằng thể thơ lục bát và dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Du, đã tạo ra một tác phẩm tinh xảo, điêu luyện. Đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa tính chất bác học và tính dân gian trong cùng một tác phẩm. Sáu câu thơ đầu hiện lên, khắc tả về một bức tranh thiên nhiên trùng điệp trước lầu Ngưng Bích và tâm trạng trầm lắng của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích phải chăng chính là một nhà tù giam lỏng tuổi thanh xuân của Thúy Kiều. Một bức tranh phong cảnh được mở ra không chỉ bởi chiều rộng mà còn cả về chiều cao và độ sâu. Cái vẻ non nước hùng vĩ, núi non trùng điệp, những thác nước chảy xuống dưới ầm ầm, tạo nên sức mạnh của mẹ thiên nhiên. Chỉ cần một nét vẽ xa xôi đã gợi ra một không gian hay chính là thế giới nội tâm của Thúy Kiều. “Cát vàng cồn nọ bụi hồng dậm kia” Bốn bề đều gợi ra một không gian ngát ngàn hoa lá, một không gian thăm thẳm, gợi ra màu của sự hoang vu, cảnh sắc nơi này càng làm cho Thúy Kiều trở nên buồn hơn, cảm giác cô đơn lại càng khắc sâu. Sự “bẽ bàng”, xấu hổ, hổ thẹn của một con người khi phải bước chân vào lầu xanh. Câu thơ thứ 4 tràn đầy cảm xúc, một sự giao cảm giữa con người với con người. Thiên nhiên lúc này cũng đồng cảm với tâm trạng của Thúy Kiều, muốn chia sẻ với nàng. Sự đồng cảm của nhà thơ với nhân vật càng lớn bao nhiêu thì tình cảm của nhà thơ trong từng câu chữ lại thấm đẫm, não nề đến đó. Trong tâm trạng bồn bề của Thúy Kiều, có nỗi nhớ Kim Trong da diết. Nàng nhớ Kim Trọng trước không phải nàng không yêu thương gia đình của mình mà trong nàng đang có sự đấu tranh gay gắt giữa chữ tình và chữ hiếu. Nàng thà hy sinh chữ tình để đặt chữ hiếu lên hàng đầu – bán thân mình chuộc cha. Như vậy, với cho mẹ, nàng đã làm trọn chữ hiếu còn đối với người nàng yêu – Kim Trọng, nàng đã phụ lời thề non hẹn biển, nàng cảm thấy mình thật là có lỗi, cảm thấy “thẹn” vì mất đi chữ “trinh” khi bị mắc mưu Mã Giám Sinh. “Tướng người dưới nguyệt …” Trong tâm trí của nàng lại hiện ra cảnh mình và Kim Trọng thề thốt dưới ánh trăng, càng băn khoăn, càng nhớ đến thì tình yêu mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng càng trở nên tha thiết hơn: “Tình sương luống những …” Nàng hiểu được tình yêu mà Kim Trọng dành cho mình, thì nỗi nhớ của nàng lại càng trở nên khao khát, như hàng ngàn mũi kim đâm vào ngực làm nàng “nghẹn lại”. Tác giả đã vượt qua mội quan niệm, định kiến của xã hội để có thể đánh giá về vẻ đẹp của Thúy Kiều – thể hiện một cái nhìn đầy nhân đạo với nhân vật của mình. Trong những câu thơ thể hiện nỗi nhớ gia đình, tác giả đã nhấn mạnh chữ “xót” – một tình cảm máu mủ ruột thịt từ đây bị chia cắt, vì những hủ tục, những bất công trong xã hội mà gia đình của Thúy Kiều hay nạn nhân chính là nàng đã phải từ giã gia đình thân yêu của mình, phải nhịn nhục như bây giờ. Trong những câu thơ, tác giả sử dụng những điển tích, điển cố: “quạt nồng, ấp lạnh, sâm lai, góc tử”- để Thúy Kiều thể hiện tình cảm đối với cha mẹ của mình, sự bất hiếu của một đứa con không thể tự tay chăm sóc cha mẹ khi về già. Sự đau khổ đến tột cùng. Nàng nhớ người yêu, nhớ gia đình trước rồi cuối cùng nàng mới tiếc thương cho cái số phận bất hạnh của mình, tưởng đâu khi gặp được Kim Trọng cuộc đời nàng đã bước sang trang mới, những biến cố đã xảy đến với gia đình Thúy Kiều, khiến cho nàng đang bước trên những con đường tăm tối không thấy ngày mai. Tác giả sử dụng bức tranh tứ bình: bốn phương trời khác nhau, nhưng sao nhìn đâu cũng thấy đau đớn, nhìn đâu cũng thấy bế tắc, tuyệt vọng. Câu hỏi tu từ được ngân lên như chính tiếng lòng ai oán của nhân vật. Ánh mắt buồn thẳm của Thúy Kiều không biết bấu víu vào đâu, nàng trông về phía cửa bể, nàng khao khát nhìn con thuyền phía xa để mong một sự giải thoát. Nhưng hình ảnh đó chỉ thấp thoáng, xa xa càng làm tăng khoảng cách giữa Thúy Kiều với mọi vật bị vùi tắt. Những tia hy vọng đã bị tắt lụi, nàng lại đi vào bế tắc, đau khổ. Ánh mắt của Thúy Kiều lại tìm đến hình ảnh “cánh hoa trôi nổi, lên – xuống” càng làm cho nàng dự cảm hơn về tương lai mù mịt của mình. Cánh hoa yếu ớt ấy có phải chính là tâm trạng buồn đau hay chính là cuộc đời của Thúy Kiều, bị vùi dập mà không tìm thấy một bến bờ dành riêng cho mình. Nàng bắt gặp “nội cỏ chân mây”. Nội cỏ chỉ gợi lên tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều, cái sầu não, đau thương mà chỉ muốn bao trùm tất cả vạn vật xung quanh. “Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” Hình ảnh chân mây chỉ nhuốm một màu xanh, phải chăng chính là dự cảm về một tương lai mù mịt phía trước dành cho cuộc đời của nàng. Tiếng thác nước ầm ầm dội xuống, tiếng gió cuốn – tất cả như một cơn giận dữ của thiên nhiên. Một sự kết hợp giữa tả cảnh và tả tình. Tiếng thác nước chảy phải chăng chính là tâm trạng hoảng loạn, lo lắng của Thúy Kiều khi nàng dự cảm tay ương sắp đổ sập xuống nàng. Một bức tranh tứ bình được thể hiện ở mức độ tăng tiến thể hiện diễn biến tâm trạng hết sức phức tạp, hỗn loạn trong lòng Thúy Kiều. Tác giả sử dụng từ “buồn trông” khiến mỗi câu thơ ngày càng trở nên ai oán, nức nở như tiếng lòng của nhân vật. Vẫn biết phía trước là tai ương, là hiểm họa nhưng không có cách nào có thể trốn thoát được. Tác giả tập trung đi sâu vào diễn biến tâm lý của nhân vật. Vừa mới bước chân ra cuộc đời đã bị cuộc đời đã bị chính cái cuộc đời tàn nhẫn, vùi dập không có cách nào có thể giải thoát được. Tác giả gửi vào đó bao nhiêu là sâu sắc, cảm thông tình yêu với nhân vật, sự đồng cảm. Đây không chỉ dành cho số phận của người phụ nữ mà còn chính cho số phận của con người. Đây là một đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật tả hình, nghệ thuật miêu tả và phân tích diễn biến nội tâm nhân vật. Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 2 Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời là một bức tranh tâm trạng có bố cục khéo léo và chặt chẽ hơn. Thiên nhiên ở đây thay đổi liên tục theo tâm trạng của con người. Đặc biệt nhân vật được nói tới ở đây là Thúy Kiều. Nguyễn Du được xem là bậc thầy về tả cảnh, mỗi câu thơ ông tả nên được xem là chuẩn mực cho vẻ đẹp trong thơ ca cổ điển. Không dừng lại ở đây, ông không chỉ là giỏi về tả cảnh mà cò giỏi về tả tâm tạng của con người. Trong thơ văn ông có hai yếu tố tình cảm và cảnh vật luôn đi liền không tách rời nhau,bổ sung cho nhau. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình xúc động. Bằng phút pháp tả cảnh ngụ tình thì tác giả đã miêu tả rất rõ tâm trạng của nhân vật một cách xuất sắc nhất. Đoạn thơ đã cho chúng ta thấy rõ nhiều cung bậc tâm trạng của nàng Kiều. Đó là nỗi cô đơn, tấm lòng thủy chung, sự buồn tủi và tấm lòng nhân hậu nàng giành cho Kim Trọng và cha mẹ của nàng. Kết cấu của đoạn trích phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu, phần thứ hai trong cô đơn và buồn tủi và cuối cùng là sự đau buồn của Kiều và những dự cảm về bão tố cuộc đời giáng xuống Kiều. Thiên nhiên trong đoạn đầu được miêu tả với khung cảnh hoang vắng và bao la đến rợn người. Ngồi ở trên lầu cao nhìn núi non trùng điệp, phía trên như ánh trắng sắp chạm tới đỉnh đầu còn ở phía dưới là những dải cát vàng nhỏ bé càng tô đậm thêm sự cô đơn nhỏ bé và lẻ loi lúc này: Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Một không gian mờ mịt và dàn trải hiện ra trước mắt Kiều, không gian ấy càng khiến cho con người ta đau đớn và xót xa biết mấy: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Từ “bẽ bàng” cho thấy tâm trạng Kiều lúc này thật sự rất buồn tủi, nàng buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ lại vừa tủi nhục. Và cảnh vật cũng như đang chia sẻ, đồng cảm với nàng “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Đây chính là bức tranh tâm trạng của Kiều ở những chuỗi ngày tháng cô đơn nhất khi nàng ở lầu Ngưng Bích. Nỗi nhớ người yêu,nhớ cha mẹ rất xúc động đươc độc thoại trong nội tâm của nhân vật. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai. Lời thơ như chứa đựng sự thổn thức của trái tim đang yêu rỉ máu, nỗi nhớ của Kiều giành cho Kim Trọng như đang rỉ máu, nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng thật sự là rất mãnh liệt. Kiều đang tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang từng ngày mong nhớ mình, nhớ trong đau khổ và tuyệt vọng. Chén rượu thề nguyền vẫn chưa ráo, vầng trăng giữa trời vẫn chứng giám cho lời thè của cả hai bên vậy mà giờ đây mỗi người một ngả một phương trời, nàng không biết rồi đây sẽ đi đâu và về đâu. Kiều tiếc nuối mối tình đầu đang dang dở và trong trắng của mình và bóng của chàng Kim không hề phai nhạt trong lòng nàng. Nhớ người yêu nàng còn xót xa nhớ đến cha mẹ, lòng nàng càng đau thắt, tuy là đã giúp cha mẹ và em thoát khỏi vòng tù tội nhưng mà khi nghĩ về cha mẹ nàng vẫn không nguôi nhớ họ và luôn lo lắng cho tương lai của họ. Nàng lo không biết thời tiết như thế nào, có thay đổi gì không. Nàng lo ai là người chăm sóc cha mẹ già, ai là người quạt cho cha mẹ lúc trở trời trái gió. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ điển cố để thể hiện tình cảm sâu nặng của người con, của phận làm con. Qua đó cho thấy Kiều là một người con rất mực hiếu thảo. Nhớ người yêu và cha mẹ nhưng cuối cùng nàng lại bừng tỉnh quay về với thực tại của mình, sống với ngổn ngang những tâm trạng và với thân phận hiện tại của bản thân. Mỗi cảnh vật được hiện lên qua con mắt một nỗi buồn. Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốn một nỗi buồn sâu sắc đến khó tả. Mỗi cặp câu đều gợi ra một nỗi buồn, cái buồn nhìn ra xa trông ngóng một thứ gì đó mơ hồ sẽ làm thay đổi tình trạng hiện tại của mình. Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 3 Thúy Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha thì lại rơi vào cạm bẫy của Tú Bà. Nàng đau khổ, tuyệt vọng và tìm cách trốn thoát, nhưng không thể thoát khỏi nanh vuốt của Tú Bà. Vì thương cha, thương em mà nàng cam chịu cuộc sống bất hạnh trong lầu xanh của Tú Bà. “Vui là vui gượng kẻo mà, ai tri âm đó mặn mà với ai’’. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích’’ diễn tả tâm trạng thương nhớ của nàng đối với những người thân yêu ruột thịt và nỗi cô đơn của nàng trong đêm trăng trước lầu Ngưng Bích. Tuổi xuân của nàng đã bị khóa chặt trong lầu Ngưng Bích. Dưới trăng, nàng nhìn thấy cảnh vật mà lòng thêm tan nát: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn cọ, bụi hồng dặm kia Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng. Diễn tả cuộc sống tù túng, mất tự do trong lầu xanh dơ bẩn của Tú Bà, tác giả dùng hai chữ “khóa xuân’’ thật là sâu sắc. Bên ngoài là cuộc sống tự do với thiên nhiên hữu tình : Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung Cảnh như một bức tranh diễm tình, huyền ảo, bộc lộ tâm trạng của nàng gắn bó với những gì xa xôi, cách trở. Không gian mở ra “bên bờ bát ngát’’, đầy màu sắc “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia’’ nhìn cảnh vật tươi đẹp nàng cảm thấy “bẽ bàng’’ lòng càng tan nát. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng. Ngồi một mình thổn thức dưới trăng, nàng tưởng nhớ đến những người thân yêu, ruột thịt. Trước tiên là nàng nhớ đến Kim Trọng, người tình xưa đã từng thề nguyền dưới trăng: Tưởng người dưới nguyệt chén đông Tin sương luống những rày trông mai chờ Hình ảnh này gợi nhớ lại kỉ niệm giữa nàng và Kim Trọng thề nguyền dưới trăng: Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miện một lời song song. Chàng Kim Trọng có biết đâu người yêu của mình bây giờ lưu lạc ở góc biển chân trời: Bên trời góc biển bơ vơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Tình cảm sâu lắng trong lòng nàng còn là nỗi nhớ cha mẹ. Người mẹ già tựa cửa chờ mong nàng cảm động biết bao: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ Nàng lo lắng không ai săn sóc mẹ già, trời nóng ai quạt cho mẹ, trời lạnh ai “ấp lạnh’’ những đêm đông. Cha thì cũng đã già rồi biết ai người săn sóc. Một lần nữa ta lại thấy Thúy Kiều là một người con gái có tình, có hiếu. Một con người như vậy mà rơi vào cảnh bất hạnh thì thật đáng thương. Thương người tình, thương cha, thương mẹ, rồi nàng lại thương mình. Đây là nỗi buồn của Thúy Kiều trong đêm trăng trước trời bể bao la: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trong ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dầu dầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Điệp ngữ “buồn trông’’ tạo ra nhạc điệu du dương cho đoạn thơ, diễn tả được nỗi buồn trào dâng lên trong lòng Thúy Kiều. Hình ảnh nào cũng mang theo một mảnh tâm trạng của Thúy Kiều. Hình ảnh chiếc thuyền với cánh buồm gợi đến, mơ ước tự do của nàng. Hình ảnh “hoa trôi man mác biết là về đâu’’ gợi đến thân phận bèo giạt hoa trôi của nàng. Hình ảnh “Nội cỏ dầu dầu’’ gợi đến tâm trạng xót xa khi nghĩ đến tấm thân nhàu nát của nàng. Và kinh khủng nhất là hình ảnh cuối cùng của đoạn thơ: Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Hình ảnh sóng gió của biển cả đã gợi đến sóng gió cuộc đời vùi dập nàng. “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi’’ là âm thanh dữ dội của sóng bể “trầm luân’’, bể khổ đã vùi dập nàng, cuốn trôi nàng trong dòng đời bất hạnh. Qua tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trong đêm trăng trước lầu Ngưng Bích, ta hiểu thêm được phẩm chất cao quý của người phụ nữ tài hoa mà bất hạnh. Nàng giàu tình cảm, yêu tha thiết Kim Trọng nhưng lại phải hy sinh tình yêu để giữ tròn chữ hiếu. Ngồi trước lầu Ngưng Bích nàng cảm thấy đau đớn, xót xa như một bông hoa bị vùi dập. Mỗi hình ảnh là một mảnh tâm hồn đau khổ của nàng. Nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật thật là sâu sắc. Xưa nay, người đọc vô cùng xúc động trước tâm trạng dày vò, đau khổ của Thúy Kiều trước lầu Ngưng Bích. Người đọc đồng tình, thông cảm với Thúy Kiều và phẫn nộ với xã hội tàn bạo đã chà đạp lên thể xác và tinh thần của người phụ nữ, chà đạp lên mơ ước tự do của con người. Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 4 Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam ta một kiệt tác của nền văn học trung đại – tác phẩm Truyện Kiều. Ngoài hai giá trị lớn và giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, truyện Kiều còn rất thành công về mặt nghệ thuật. Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử bằng trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích miêu tả thành công cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiêu thảo của Kiều. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”. Đoạn thơ dài 22 câu, không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Kiều. Cảnh ngộ của Kiều ở lầu Ngưng Bích vô cùng cô đơn, buồn tủi: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bằng nét bút tả cảnh ngụ tình điêu luyện, Nguyễn Du đã miêu tả thành công nội tâm của Kiều. Từ ngữ “khóa xuân” đã cho thấy tình cảnh Kiều lâm vào cảnh cá chậu chim lồng, bị giam lỏng nơi lầu cao, khóa kín tuổi xuân của nàng. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục. “Lầu Ngưng Bích” vốn là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữ tình, thơ mộng được mở ra cả ba chiều cao, xa và rộng qua các từ ngữ “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”. Thế nhưng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”, trong tình cảnh giam cầm Kiều khung cảnh thật buồn thảm, vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm hoang vu, vắng lặng. Lầu Ngưng Bích chỉ là là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm tuổi xuân mơn mởn của tuyệt sắc giai nhân, sự sống của Kiều như bị những bàn tay tàn bạo bóp nghẹt. Từ đó khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngán, buồn tủi, không ai chia sẻ nàng chỉ biết là bạn với mây, với đèn, với cảnh vật hoang vu, nhạt nhòa. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, Kiều cảm thấy xa cách, hoang vắng, một mình một bóng bơ vơ, bị giam cầm cách biệt nơi đất khách quê người, xa quê hương, xa người yêu của mình: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ, Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước, đó là một nét bút đặc sắc, độc đáo và phù hợp với tâm lí, thể hiện tấm lòng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ “tưởng”, “trông”, “chờ” trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng. Kiều càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước trăm năm ở vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình. Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, “rày trông mai chờ” uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, càng thấp thỏm lo âu. Dù cho mỗi người một phương nhưng tình cản, tấm lòng son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không thể phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên bước đường trôi dạt nơi “bên trời góc bể”, bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng dành cho nàng. Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ của mình: Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Với ngôn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng ngổn ngang của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa” chỉ nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Kiều xót thương cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, “tựa cửa hôm mai” mong ngóng tin nàng, sợ cha mẹ già yếu ở nhà, không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, cùng với điển tích “Sân Lai”, “Gốc tử” đã nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ mình. Nàng lo sợ ở nơi quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm lòng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên thật rõ nét. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, Kiều là người đáng thương nhất. Thế nhưng với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng luôn hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ của mình. Nỗi nhớ của Kiều rất thực và có chiều sâu, từ đó cho thấy Kiều là một đứa con hiếu thảo, một người tình thủy chung và là một con người giàu lòng vị tha. Tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng nhưng đều diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều. Cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời chiều hoàng hôn thật cô độc, lẻ loi: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Khung mở ra vào thời điểm chiều hôm, thời điểm của những lưu luyến khó tả. “Cửa bể chiều hôm” gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia.Các từ ngữ “thấp thoáng”, “xa xa” gợi sự lẻ loi, đơn độc như chính niềm hi vọng mỏng manh, leo lét của Kiều. Một mình bơ vơ ở nơi đó, Kiều chỉ mòn mỏi nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, chờ mong một con thuyền đến cứu, thế nhưng những chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở xa rồi mất hút về phía chân trời. “Thuyền ai” lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời Kiều, chẳng biết đến bao giờ có thể về được quê nhà, báo hiếu cho cha mẹ.Ánh nhìn của Kiều vẫn ở mặt nước nhưng đã gần hơn: Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Cánh hoa mỏng manh, dập dìu trong dòng nước, bé nhỏ, chẳng thể nào chống chọi được sức của “ngọn nước mới sa” như chính thân phận nàng Kiều nhỏ bé trong dòng đời đẩy đưa. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi, tả tơi trôi theo dòng đời vô định “biết là về đâu” như chính bông hoa kia. Nhìn cánh hoa bị vùi dập tả tơi ấy, nàng Kiều lại càng nhớ thương Kim Trọng, càng buồn tủi, xót xa vì số phận bèo dạt mây trôi, chẳng biết sẽ đi về nơi nao của mình.Không chỉ có mặt nước mênh mang chất chứa bao nỗi buồn mà cả cỏ cây cũng sầu thảm: Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Ngược với cái tên xanh biếc hi vọng của “Ngưng Bích” sắc xanh nối tiếp của trời đất qua đôi mắt buồn tủi của Kiều trở nên thật sầu thảm. Từ láy “rầu rầu” gợi nên hình ảnh của một bãi cỏ tàn úa, xơ xác đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất tàn úa, héo hon, vô vị, tẻ nhạt như chính số phận bị giam lỏng trên lầu cao của Kiều. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài sắc vẹn toàn của nàng rồi sẽ phai tàn, vô vị như màu xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hi vọng nay đã tàn úa như chính niềm hi vọng đang cạn dần và nỗi xót xa, dằn vặt ngày càng dâng cao trong lòng Kiều. Quang cảnh đang im lặng, bỗng dậy sóng: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Âm thanh của tiếng sóng “ầm ầm” trong cảnh “gió cuốn mặt duềnh” như chính là những bão tố phong ba đang chờ Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào tai họa sẽ ập đến như tiếng sóng dồn dập ngoài xa. Tiếng sóng ầm ì như chính tiếng của tai họa sắp ập tới, những cạm bẫy của cuộc đời ập đến “kêu quanh ghế ngồi” khiến cho nàng Kiều sợ hãi. Điệp ngữ “buồn trông” đặt ở bốn đầu câu lục bát trong đoạn thơ như tiếng thở dài cùng với nhịp thơ chầm chậm và những thanh bằng đã nhấn mạnh nỗi buồn cứ càng lú càng dâg lên mãi trong lòng Kiều cùng hòa với cảnh vật càng lúc càng mênh mang, vắng vẻ hơn. Những từ láy “xa xa”, “thấp thoáng”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” như những con sóng dằn vặt, buồn tủi dâng tràn trong lòng Kiều. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều cũng như văn học trung đại Việt Nam. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm về Kiều, môt người tình chung thủy, một đứa con hiếu thảo và lòng một con người giàu lòng vị tha, khiến ta căm hận xã hội phong kiến bất công tàn bạo đưa đẩy con người tài hoa vào kiếp lầu xanh tủi hổ. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật kết hợp bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều và chứng tỏ được tài năng và trái tim biết sẻ chia, biết yêu thương của Nguyễn Du đối dành cho nhân vật và cho cuộc đời. Chính hồn thơ ấy, trái tim ấy đã đi vào tâm tưởng bao thế hệ, đưa chúng ta đến bao cảm xúc khác nhau, khiến ta chẳng thể nào quên như nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với đại thi hào này: Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân, Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều. Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 5 Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thế hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều. Sống nơi lầu Ngưng Bích là Kiều sống trong sự cô đơn tuyệt đối: Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ khoá xuân đã nói lên điều đó. Khoá xuân ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, tương lai mờ mịt. Trong khi những dư vị đau khổ vừa trại qua vẫn đang tấy đỏ, giờ Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượn sóng, bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thận phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi dơn côi khiến Kiều càng thấy bẽ bàng chán ngán, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đôi ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thuý Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy. Tạm quên đi những chia xé trong lòng, Kiều nhớ về những người thân: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương luống những rày trông mai chờ. Trái với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau dứt tình người yêu như còn rớm máu, kỉ niệm như còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh làm nhục, sau đó bị đưa vào chốn lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hi sinh bán mình nên phần nào đã đáp đền được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỗi hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia lìa đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, nàng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xa, ân hận. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thuỷ của một con người. Nếu khi nhớ tới Kim Trọng, Kiều tưởng thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều xót: Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ? Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa ngóng chờ tin của đứa con lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố Sân Lai, gốc tử đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tàn phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ, Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình chung thuỷ, là người con rất mực hiếu thào, là người có tấm lòng vị tha đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cùng là sự cảm thông lạ lùng của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người. Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với những lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã tình buồn tác động lại khiến cảnh buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông là cảnh cửa bể lúc chiều hôm: Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở luôn gợi buồn. Giữa khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha hương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê nhà cách xa, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao: Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu? Cảnh làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cánh hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ: Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là cỏ non xanh rợn chân trời, còn cỏ ở đây rầu rầu. Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải là màu xanh của sự sống, của hi vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa hèn của Thuý Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ấm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Và đó cũng là hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và các cặp câu được liên kết nhờ điệp ngữ buồn trông: Buồn trông cửa biển chiều hôm, Buồn trông ngọn nước mới sa, Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Buồn trông là nhìn xa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. Buồn trông có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngửa. Điệp ngữ kết hợp với những hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. Buồn trông trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tứ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với hoà tấu phức điệu của sóng biển, sóng lòng, sóng đời đang vang lên những tiếng gầm gào của hiểm hoạ như muôn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất để rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Để thể hiện tâm trạng phức tạp mỗi nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn-nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình, Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều. Nguyễn Tuyến tổng hợp Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Văn mẫu lớp 91 (20%) 1 đánh giá Từ khóa tìm kiếmluận điễm 3 bài kiều lầu ngưng bích phần trọng điểmphân tích hình ảnh kiều nhớ gđ và ny trước lầu ngưng bĩhsthuyết minh bài kiều ở lầu ngưng bích Có thể bạn quan tâm?Thuyết minh về di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về di tích lịch sử Đền Hùng – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về lễ hội Hùng Vương – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về một cảnh đẹp quê hương em – Văn mẫu lớp 9Phân tích đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán – Văn mẫu lớp 9Phân tích đoạn trích hồi IV vở kịch Bắc Sơn – Văn mẫu lớp 9Thuyết minh về một vùng quê đẹp – Văn mẫu lớp 9Phân tích truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi – Văn mẫu lớp 9

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 1

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm bất hủ đã đi sâu vào lòng con người như một áng văn chương đan xen giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ở áng văn này, đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã phác họa lên một bức tranh hữu tình, nên thơ với nàng Kiều “tài hoa bạc mệnh” và những nhân vật được đúc tả từ chính những con người trong thế giời hiện thực vô cùng sống động nhưng cũng đầy ai oán. Ai oán một chế độ xã hội bất công, nơi mà con người ta bị dồn nén đến bức đường cùng nhưng ở đó vẫn còn những tia sáng nhỏ nhoi, rực rỡ trong màn đêm đen tối, mù mịt. Trong đoạn trích “Kiểu ở lầu Ngưng Bích”, nhà văn Nguyễn Du đã khắc tả thành công nỗi nhớ người yêu, nhớ gia đình nhưng cũng xót thương cho chính thân phận hẩm hiu và dự cảm về một tai họa đang rình rập ở phía trước. Cảm xúc hỗn loạn, đầy khắc khoải, trăn trở của nàng Kiều đã tạo nên nét độc đáo cho đoạn trích này.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn thứ 2 của phần “Lưu lạc và gia biến”. Trong đoạn trích, tâm trạng của Thúy Kiều như đan xen giữa: buồn – cô đơn, nỗi nhớ người yêu, nhớ gia đình và lo lắng cho số phận của mình.

Tác giả đã thâm nhập vào nhân vật để cùng đồng cảm, cùng hoang mang và lo sợ với Thúy Kiều. Đó là sự thương xót với nhân vật nhưng đồng thời là thể hiện cái nhìn ngợi ca đầy chân trọng, đó như một lời khen, một tiếng yêu thương mà tác giả đã dành cho nhân vật. Trong tiếng nức nở của Thúy Kiều còn có cả tiếng khóc ai oán, bi thương. Bằng thể thơ lục bát và dưới ngòi bút điêu luyện của Nguyễn Du, đã tạo ra một tác phẩm tinh xảo, điêu luyện. Đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa tính chất bác học và tính dân gian trong cùng một tác phẩm.

Sáu câu thơ đầu hiện lên, khắc tả về một bức tranh thiên nhiên trùng điệp trước lầu Ngưng Bích và tâm trạng trầm lắng của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích phải chăng chính là một nhà tù giam lỏng tuổi thanh xuân của Thúy Kiều. Một bức tranh phong cảnh được mở ra không chỉ bởi chiều rộng mà còn cả về chiều cao và độ sâu. Cái vẻ non nước hùng vĩ, núi non trùng điệp, những thác nước chảy xuống dưới ầm ầm, tạo nên sức mạnh của mẹ thiên nhiên. Chỉ cần một nét vẽ xa xôi đã gợi ra một không gian hay chính là thế giới nội tâm của Thúy Kiều.

“Cát vàng cồn nọ bụi hồng dậm kia”

Bốn bề đều gợi ra một không gian ngát ngàn hoa lá, một không gian thăm thẳm, gợi ra màu của sự hoang vu, cảnh sắc nơi này càng làm cho Thúy Kiều trở nên buồn hơn, cảm giác cô đơn lại càng khắc sâu. Sự “bẽ bàng”, xấu hổ, hổ thẹn của một con người khi phải bước chân vào lầu xanh.

Câu thơ thứ 4 tràn đầy cảm xúc, một sự giao cảm giữa con người với con người. Thiên nhiên lúc này cũng đồng cảm với tâm trạng của Thúy Kiều, muốn chia sẻ với nàng. Sự đồng cảm của nhà thơ với nhân vật càng lớn bao nhiêu thì tình cảm của nhà thơ trong từng câu chữ lại thấm đẫm, não nề đến đó.

Trong tâm trạng bồn bề của Thúy Kiều, có nỗi nhớ Kim Trong da diết. Nàng nhớ Kim Trọng trước không phải nàng không yêu thương gia đình của mình mà trong nàng đang có sự đấu tranh gay gắt giữa chữ tình và chữ hiếu. Nàng thà hy sinh chữ tình để đặt chữ hiếu lên hàng đầu – bán thân mình chuộc cha. Như vậy, với cho mẹ, nàng đã làm trọn chữ hiếu còn đối với người nàng yêu – Kim Trọng, nàng đã phụ lời thề non hẹn biển, nàng cảm thấy mình thật là có lỗi, cảm thấy “thẹn” vì mất đi chữ “trinh” khi bị mắc mưu Mã Giám Sinh.

“Tướng người dưới nguyệt …”

Trong tâm trí của nàng lại hiện ra cảnh mình và Kim Trọng thề thốt dưới ánh trăng, càng băn khoăn, càng nhớ đến thì tình yêu mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng càng trở nên tha thiết hơn:

“Tình sương luống những …”

Nàng hiểu được tình yêu mà Kim Trọng dành cho mình, thì nỗi nhớ của nàng lại càng trở nên khao khát, như hàng ngàn mũi kim đâm vào ngực làm nàng “nghẹn lại”. Tác giả đã vượt qua mội quan niệm, định kiến của xã hội để có thể đánh giá về vẻ đẹp của Thúy Kiều – thể hiện một cái nhìn đầy nhân đạo với nhân vật của mình.

Trong những câu thơ thể hiện nỗi nhớ gia đình, tác giả đã nhấn mạnh chữ “xót” – một tình cảm máu mủ ruột thịt từ đây bị chia cắt, vì những hủ tục, những bất công trong xã hội mà gia đình của Thúy Kiều hay nạn nhân chính là nàng đã phải từ giã gia đình thân yêu của mình, phải nhịn nhục như bây giờ. Trong những câu thơ, tác giả sử dụng những điển tích, điển cố: “quạt nồng, ấp lạnh, sâm lai, góc tử”- để Thúy Kiều thể hiện tình cảm đối với cha mẹ của mình, sự bất hiếu của một đứa con không thể tự tay chăm sóc cha mẹ khi về già. Sự đau khổ đến tột cùng.

Nàng nhớ người yêu, nhớ gia đình trước rồi cuối cùng nàng mới tiếc thương cho cái số phận bất hạnh của mình, tưởng đâu khi gặp được Kim Trọng cuộc đời nàng đã bước sang trang mới, những biến cố đã xảy đến với gia đình Thúy Kiều, khiến cho nàng đang bước trên những con đường tăm tối không thấy ngày mai.

Tác giả sử dụng bức tranh tứ bình: bốn phương trời khác nhau, nhưng sao nhìn đâu cũng thấy đau đớn, nhìn đâu cũng thấy bế tắc, tuyệt vọng. Câu hỏi tu từ được ngân lên như chính tiếng lòng ai oán của nhân vật.

Ánh mắt buồn thẳm của Thúy Kiều không biết bấu víu vào đâu, nàng trông về phía cửa bể, nàng khao khát nhìn con thuyền phía xa để mong một sự giải thoát. Nhưng hình ảnh đó chỉ thấp thoáng, xa xa càng làm tăng khoảng cách giữa Thúy Kiều với mọi vật bị vùi tắt. Những tia hy vọng đã bị tắt lụi, nàng lại đi vào bế tắc, đau khổ.

Ánh mắt của Thúy Kiều lại tìm đến hình ảnh “cánh hoa trôi nổi, lên – xuống” càng làm cho nàng dự cảm hơn về tương lai mù mịt của mình.

Cánh hoa yếu ớt ấy có phải chính là tâm trạng buồn đau hay chính là cuộc đời của Thúy Kiều, bị vùi dập mà không tìm thấy một bến bờ dành riêng cho mình. Nàng bắt gặp “nội cỏ chân mây”. Nội cỏ chỉ gợi lên tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều, cái sầu não, đau thương mà chỉ muốn bao trùm tất cả vạn vật xung quanh.

“Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Hình ảnh chân mây chỉ nhuốm một màu xanh, phải chăng chính là dự cảm về một tương lai mù mịt phía trước dành cho cuộc đời của nàng.

Tiếng thác nước ầm ầm dội xuống, tiếng gió cuốn – tất cả như một cơn giận dữ của thiên nhiên. Một sự kết hợp giữa tả cảnh và tả tình. Tiếng thác nước chảy phải chăng chính là tâm trạng hoảng loạn, lo lắng của Thúy Kiều khi nàng dự cảm tay ương sắp đổ sập xuống nàng.

Một bức tranh tứ bình được thể hiện ở mức độ tăng tiến thể hiện diễn biến tâm trạng hết sức phức tạp, hỗn loạn trong lòng Thúy Kiều. Tác giả sử dụng từ “buồn trông” khiến mỗi câu thơ ngày càng trở nên ai oán, nức nở như tiếng lòng của nhân vật. Vẫn biết phía trước là tai ương, là hiểm họa nhưng không có cách nào có thể trốn thoát được.

Tác giả tập trung đi sâu vào diễn biến tâm lý của nhân vật. Vừa mới bước chân ra cuộc đời đã bị cuộc đời đã bị chính cái cuộc đời tàn nhẫn, vùi dập không có cách nào có thể giải thoát được. Tác giả gửi vào đó bao nhiêu là sâu sắc, cảm thông tình yêu với nhân vật, sự đồng cảm. Đây không chỉ dành cho số phận của người phụ nữ mà còn chính cho số phận của con người. Đây là một đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật tả hình, nghệ thuật miêu tả và phân tích diễn biến nội tâm nhân vật. 

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bài số 2

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời là một bức tranh tâm trạng có bố cục khéo léo và chặt chẽ hơn. Thiên nhiên ở đây thay đổi liên tục theo tâm trạng của con người. Đặc biệt nhân vật được nói tới ở đây là Thúy Kiều.

Nguyễn Du được xem là bậc thầy về tả cảnh, mỗi câu thơ ông tả nên được xem là chuẩn mực cho vẻ đẹp trong thơ ca cổ điển. Không dừng lại ở đây, ông không chỉ là giỏi về tả cảnh mà cò giỏi về tả tâm tạng của con người. Trong thơ văn ông có hai yếu tố tình cảm và cảnh vật luôn đi liền không tách rời nhau,bổ sung cho nhau.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình xúc động. Bằng phút pháp tả cảnh ngụ tình thì tác giả đã miêu tả rất rõ tâm trạng của nhân vật một cách xuất sắc nhất. Đoạn thơ đã cho chúng ta thấy rõ nhiều cung bậc tâm trạng của nàng Kiều. Đó là nỗi cô đơn, tấm lòng thủy chung, sự buồn tủi và tấm lòng nhân hậu nàng giành cho Kim Trọng và cha mẹ của nàng.

Kết cấu của đoạn trích phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu, phần thứ hai trong cô đơn và buồn tủi và cuối cùng là sự đau buồn của Kiều và những dự cảm về bão tố cuộc đời giáng xuống Kiều.

Thiên nhiên trong đoạn đầu được miêu tả với khung cảnh hoang vắng và bao la đến rợn người. Ngồi ở trên lầu cao nhìn núi non trùng điệp, phía trên như ánh trắng sắp chạm tới đỉnh đầu còn ở phía dưới là những dải cát vàng nhỏ bé càng tô đậm thêm sự cô đơn nhỏ bé và lẻ loi lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Một không gian mờ mịt và dàn trải hiện ra trước mắt Kiều, không gian ấy càng khiến cho con người ta đau đớn và xót xa biết mấy:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Từ “bẽ bàng” cho thấy tâm trạng Kiều lúc này thật sự rất buồn tủi, nàng buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ lại vừa tủi nhục. Và cảnh vật cũng như đang chia sẻ, đồng cảm với nàng “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Đây chính là bức tranh tâm trạng của Kiều ở những chuỗi ngày tháng cô đơn nhất khi nàng ở lầu Ngưng Bích.

Nỗi nhớ người yêu,nhớ cha mẹ rất xúc động đươc độc thoại trong nội tâm của nhân vật.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như chứa đựng sự thổn thức của trái tim đang yêu rỉ máu, nỗi nhớ của Kiều giành cho Kim Trọng như đang rỉ máu, nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng thật sự là rất mãnh liệt. Kiều đang tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang từng ngày mong nhớ mình, nhớ trong đau khổ và tuyệt vọng. Chén rượu thề nguyền vẫn chưa ráo, vầng trăng giữa trời vẫn chứng giám cho lời thè của cả hai bên vậy mà giờ đây mỗi người một ngả một phương trời, nàng không biết rồi đây sẽ đi đâu và về đâu. Kiều tiếc nuối mối tình đầu đang dang dở và trong trắng của mình và bóng của chàng Kim không hề phai nhạt trong lòng nàng.

Nhớ người yêu nàng còn xót xa nhớ đến cha mẹ, lòng nàng càng đau thắt, tuy là đã giúp cha mẹ và em thoát khỏi vòng tù tội nhưng mà khi nghĩ về cha mẹ nàng vẫn không nguôi nhớ họ và luôn lo lắng cho tương lai của họ. Nàng lo không biết thời tiết như thế nào, có thay đổi gì không. Nàng lo ai là người chăm sóc cha mẹ già, ai là người quạt cho cha mẹ lúc trở trời trái gió. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ điển cố để thể hiện tình cảm sâu nặng của người con, của phận làm con. Qua đó cho thấy Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.

Nhớ người yêu và cha mẹ nhưng cuối cùng nàng lại bừng tỉnh quay về với thực tại của mình, sống với ngổn ngang những tâm trạng và với thân phận hiện tại của bản thân. Mỗi cảnh vật được hiện lên qua con mắt một nỗi buồn.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

0