02/07/2018, 20:21

Lịch sử văn minh Châu Âu (bài 2)

Gia tài của đế chế La Mã Cole_Thomas_The_Consummation_The_Course_of_the_Empire_1836 Tôn Thất Thông CHLB Đức Người La Mã tiếp thu nền văn minh Hy Lạp một cách chọn lọc và áp dụng rộng rãi trong đế chế. Nhưng họ rất thực dụng và thể hiện tính chất đó qua nhiều dạng ...

Gia tài của đế chế La Mã

Cole_Thomas_The_Consummation_The_Course_of_the_Empire_1836

Cole_Thomas_The_Consummation_The_Course_of_the_Empire_1836

Tôn Thất Thông

 CHLB Đức

Người La Mã tiếp thu nền văn minh Hy Lạp một cách chọn lọc và áp dụng rộng rãi trong đế chế. Nhưng họ rất thực dụng và thể hiện tính chất đó qua nhiều dạng thức khác nhau. Họ pha chế nền triết học huy hoàng của Hy Lạp và làm cho nó hấp dẫn với đám đông. Nếu Aristotle và các học giả khác đã dày công xây dựng một hệ thống giáo dục tuyệt hảo và phong phú, thì người La Mã thu gọn nó lại thành ngành học hùng biện, vì mọi thành công trong chính trị và kinh doanh đều phụ thuộc vào nghệ thuật diễn đạt và thuyết phục người khác. Nói theo ngôn ngữ hiện đại hôm nay: họ tinh giảm giáo dục xuống thành huấn nghiệp[1].

Charles Van Doren, giáo sư đại học Columbia, USA 

Diễn tiến lịch sử kết cấu thành nền văn minh không xảy ra trong một khung thời gian rõ rệt, cho nên việc phân chia các giai đoạn phát triển nền văn minh trong một nước rất khó. Trong một lục địa với nhiều giống dân khác nhau, tiếng nói khác nhau, định chế chính trị khác nhau, việc phân chia ấy càng khó gấp bội. Có ai trong chúng ta có thể phân chia các giai đoạn của văn minh châu Á một cách tổng thể mà vẫn diễn đạt được tính chất của từng quốc gia riêng lẻ? Với châu Âu, chúng ta có thể làm được việc đó, dù khó khăn và mang tính tương đối.

Khác với các lục địa khác, châu Âu có những tính chất rất đặc thù. Sự phát triển nền văn minh của họ không giống một lục địa nào khác. Trong một giai đoạn nào đó, thí dụ thời kỳ phục hưng thế kỷ 15/16 thì Ý dẫn đầu cả lục địa về tính ưu việt trong nghệ thuật. Ý cũng là nơi sinh thành của chủ nghĩa nhân bản có ảnh hưởng mạnh và lâu dài lên bản chất con người châu Âu. Cũng trong thời gian đó, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha là những nước đầu tiên có sáng kiến vượt Đại Tây Dương để thám hiểm liên lục địa. Đức là nước khai mào cho phong trào cải cách tôn giáo. Anh đi tiên phong trong cơ cấu tổ chức nhà nước trong thế kỷ 17 để thực thi dân chủ, tạo nên sức bật mới để giải phóng cho các nguồn lực xã hội.

Mỗi nước có sáng kiến khác nhau, nhưng những hoạt động tiên phong đó không bao giờ dừng lại trong biên giới một quốc gia, mà những nhân tố tiến bộ thường được nhanh chóng tiếp thu bởi các nước chung quanh, rồi thích ứng với điều kiện xã hội địa phương để từng bước kiến tạo nên những nét độc đáo riêng của từng quốc gia. Cụm từ „nhanh chóng“ có lẽ hơi cường điệu. Những sáng kiến từ nước này được lan qua nước khác, có lúc sau vài năm, có lúc cần vài chục năm, cũng có lúc kéo dài hàng thế kỷ. Thí dụ sáng kiến về chủ nghĩa nhân bản đã có từ thế kỷ 14, nhưng mãi đến thế kỷ 15 mới trở thành ý thức sống động trong khu vực Toscana để biến nó thành trào lưu văn hóa tại Ý, và mãi đến thế kỷ 16 mới bám rễ vào các nước ở trung và tây Âu, tạo nên một sắc thái tương đối nhất quán trên cả lục địa.

Dù lan tỏa nhanh hay chậm thì sự trao đổi, học hỏi và bổ sung lẫn nhau bao giờ cũng xảy ra. Trong một khía cạnh tương đối nào đó, sự tương tác ấy tạo nên một bản sắc gần giống nhau trong nhiều khu vực, mặc dù mỗi vùng có một nét đặc thù riêng. Có thể kết luận được chăng, là có một bản sắc châu Âu chi phối quá trình hình thành và phát triển nền văn minh của họ?

Vậy chúng ta thử phân chia các giai đoạn để khảo sát.

Mỗi nhà sử học có một cách phân chia khác nhau tùy theo đối tượng và mục đích khảo sát. Ở đây, chúng ta tạm dùng mô hình của nhà sử học François Guizot người Pháp nổi danh từ đầu thế kỷ 19. Ông chia làm ba thời kỳ trong sự phát triển nền văn minh châu Âu[2]:

Thứ nhất, thời kỳ nguyên thủy. Đây là thời kỳ khi các thành tố tạo thành nền văn minh tự giải phóng ra khỏi tình trạng hỗn loạn, sắp xếp đội ngũ để biểu dương trật tự mới của chúng, chuẩn bị tích lũy các thành tố cần thiết để xây dựng nền văn minh. Giai đoạn này bắt đầu từ thời cổ đại, kéo dài đến khoảng chừng thế kỷ 11 và 12 sau công nguyên.

Thứ hai, thời kỳ thử nghiệm, dò dẫm tìm đường. Các thành tố của trật tự xã hội tiến sát lại gần nhau, tích hợp nhau cũng như loại trừ nhau mà tự các hoạt động đó, chúng chưa tạo nên một lực lượng nào chủ đạo chi phối tiến trình phát triển lâu dài và bền vững. Tuy nhiên, những thử nghiệm trong thời kỳ này là nền móng tư tưởng của các bước phát triển tiếp theo. Giai đoạn này kéo dài đến thế kỷ 16 hoặc lâu hơn. Thời kỳ này có thể xem như chấm dứt với sự thành công của phong trào phục hưng được phổ biến rộng rãi trên mọi miền của lục địa châu Âu.

Thứ ba, thời kỳ phát triển. Trong thời kỳ này, xã hội châu Âu đã định hình rõ rệt, xu hướng phát triển như thế nào cũng đã được xác định. Nó phát triển nhanh chóng và tương đối đồng loạt để tiến đến một mục tiêu rõ rệt và chính xác. Thời kỳ này cũng có thể được gọi là thời kỳ đại cách mạng thay đổi tận gốc xã hội châu Âu. Quá trình phát triển đó bắt đầu từ thế kỷ 16 và kéo dài đến cuối thế kỷ 19.

Sự phát triển trong thế kỷ 20 và 21 là sự tiếp nối tất yếu của thành quả đã đạt được từ các thế kỷ trước, nhưng nó mang một sắc thái đặc biệt mới mẻ, tuân theo những qui luật mới mà trước đó chúng ta chưa gặp trong ba thời kỳ nói trên. Vả lại, văn minh châu Âu trong thế kỷ 20 và 21 không còn là một thực thể của riêng nó, mà sự phân tích đòi hỏi phải đặt nó trong bối cảnh chung của toàn cầu. Vì thế, chúng ta tạm gát qua giai đoạn này, và giới hạn sự khảo sát lịch sử văn minh châu Âu cho đến cuối thế kỷ 19.

Trước hết, chúng ta trình bày rất sơ lược các sự kiện chính yếu trong ba thời kỳ nói trên để có một cái nhìn tổng quan của lịch sử phát triển 2000 năm. Đi sâu lý giải từng vấn đề một của ba thời kỳ đó là nhiệm vụ của những chương kế tiếp.

Thời kỳ nguyên thủy

Lịch sử châu Âu từ thời cổ đại đến hết thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên trải qua ba hình thái xã hội khác nhau. Trước tiên là thời kỳ huy hoàng của đế chế La Mã với nền văn minh mang tính chất lý thuyết và trừu tượng của Hy Lạp, kết hợp với sự khôn ngoan và thực tiễn của người La Mã. Tiếp theo là thời kỳ phong kiến tạo nên sau sự sụp đổ của Tây La Mã vì sự xâm chiếm của các giống dân hoang dã Goths và Vandals. Sau đó là ý thức thống nhất châu Âu lần đầu tiên được hình thành trong thời đại Carolingian, bắt đầu với Charlemagne và kéo dài hơn hai thế kỷ.

Thành thị và thôn quê trong đế chế La Mã

Lúc bị La Mã thôn tính vào thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, đế chế Hy Lạp với nền văn hóa Hellen truyền thống đã mang đậm dấu ấn của đời sống đô thị với trình độ văn minh cao. Đó là những nhà nước thành phố[3] mà người Hy Lạp đã phát minh đầu tiên trước đó mấy thế kỷ. Trong những thành phố với lớp người thuộc tầng lớp trên nói tiếng Hy Lạp đã có sẵn các thành phần dân cư hỗn hợp. Họ phục tùng sự cai trị của La Mã, miễn sao nếp sống của họ không bị xáo trộn[4]. Người La Mã đã khôn ngoan kế thừa có chọn lọc đời sống văn minh đô thị để xây dựng đế chế, phần nào dựa vào khuôn mẫu văn minh Hy Lạp, nhất là mô hình Athens. Tuy nhiên họ khước từ mô hình nhà nước thành phố mà chỉ muốn xây dựng nhà nước trung ương với quyền hành tập trung vào La Mã.

Kể từ lúc người con nuôi của Caesar, Augustus[5] lên kế vị hoàng đế, ông đưa ra kiểu mẫu xây dựng thành phố làm chuẩn mực cho toàn bộ vùng đế chế[6]. Kể từ đó về sau, „lịch sử chinh phục thế giới của đế chế La Mã là lịch sử của bành trướng và xây dựng một số lượng lớn các đô thị[7]“. Họ không quan tâm đến vùng quê. Nông dân ở đó chỉ có nhiệm vụ đóng thuế và không hưởng một quyền lợi nào từ qui định của luật pháp. Họ không được thừa nhận là công dân La Mã. Họ là những người cùng đinh trong xã hội. Có nhiều người vì nghèo khổ bị mang ra chợ nô lệ bán cho người thành thị, đấy không phải là chuyện hiếm hoi. Nhiều hiệp sĩ đấu trường được mua từ các chợ nô lệ, được huấn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân để mua vui cho quan chức La Mã.

Thành phố là nơi nuôi dưỡng quân đội để bảo vệ đất đai, nơi thu thuế nông dân và thương gia để nộp về La Mã, nơi cư ngụ và hành đạo của hàng giáo sĩ, nơi tòa án đưa ra phán quyết, nơi tập trung nguồn tài chánh của đế chế, nơi xây dựng các công trình phục vụ cho đời sống xa hoa theo kiểu mẫu kinh đô La Mã. Chỉ có thành phố mới có trường học và các cơ quan công quyền.

Hệ thống giao thông liên tỉnh cũng được xây dựng theo một kiểu mẫu nhất quán: một con đường độc đạo thẳng tắp lát đá, chất lượng cao, ít dốc để nối đến một thành phố lân cận. Giữa hai thành phố là đầm lầy, rừng rú và làng mạc hoang vu, phát triển tùy tiện, phụ thuộc vào ý muốn và nguồn lực tài chính của giới điền chủ địa phương.

Trong cấu trúc lỏng lẻo đó, xã hội bị phân hóa thành nhiều giai cấp khác nhau rõ rệt: Doanh nhân và tiểu công nghiệp là những người hưởng đầy đủ quyền công dân; giáo sĩ thuộc một nhóm đặc biệt trong xã hội, chỉ chịu sự chi phối bởi luật công giáo; người Do Thái được bảo vệ trong khuôn khổ cho phép của vua chúa và giám mục, họ sống cô lập trong các khu Ghetto[8], một thực thể lạ trong cộng đồng Kitô. Còn lại đa số là nông dân, đày tớ, nô lệ phục vụ cho người chủ ở nông thôn hoặc bên ngoài thành phố. Họ không được luật pháp bảo vệ. Trong trường hợp tranh chấp với ai, họ phải nhờ các chủ nhân đại diện trước pháp luật[9].

Đấy là gia tài đầu tiên mà đế chế La Mã để lại cho châu Âu. Họ để lại sáng kiến và cơ cấu tổ chức thành phố, mô hình thiết kế vuông vức đối xứng, kỹ thuật xây dựng lâu đài cung điện, hệ thống phòng thủ, đường sá, các công trình công cộng, hệ thống cung cấp và thoát nước, nhà tắm công cộng, sân vận động, đấu trường, nhà hát, nhà thờ v.v… Đồng thời họ cũng để lại một cấu trúc xã hội tương phản và bi tráng: những người lớp trên sống xa hoa trong bốn bức tường của thành phố, những kẻ cùng đinh nô lệ nghèo khổ sống ở vùng quê bên ngoài. Và tệ hại hơn nữa là đế chế La Mã để lại một cộng đồng lỏng lẻo, không có sự gắn kết giữa đời sống trong và ngoài thành phố, cũng thiếu sự gắn kết giữa các thành phố với nhau. Khái niệm quốc gia hoàn toàn xa lạ trong cộng đồng rời rạc đó.

Đế chế La Mã và Kitô giáo

Kể từ lúc Constantine[10] đại đế nắm quyền bính, Kitô giáo được chính thức thừa nhận, không còn bị truy đuổi như trước. Theo quyết định Mailand năm 313, giáo sĩ Kitô được phép truyền đạo trên khắp đế chế La Mã. Đây là bước ngoặc đầu tiên của lịch sử phát triển Kitô giáo, còn được gọi là bước ngoặc Constantine. Vị hoàng đế này chính thức cải đạo theo Kitô giáo và được rửa tội ngay trên giường bệnh trước lúc mất. Biến cố đặc biệt đó đã làm cho giáo dân và cả giáo hội từ nay tự xem như Kitô giáo và đế chế La Mã là một thể thống nhất[11]. Tôn giáo bắt đầu xâm nhập vào đời sống chính trị. Bước ngoặc quan trọng thứ hai là sắc lệnh năm 380 của Theodosius đại đế (347-395) nâng Kitô thành quốc giáo[12], sau đó năm 391 cấm tất cả các tôn giáo khác không được phép hành đạo. Bước ngoặc thứ ba là quyết định năm 529 của Justinian I (482-565) đóng cửa viện hàn lâm Plato, làm một vạch ngang chấm dứt việc quảng bá triết lý Hy Lạp trong đế chế. Ở Đông La Mã, nhất là kinh đô Contantinople nhờ sự tiếp xúc với nhiều luồng văn hóa khác nhau, cho nên cách hành xử tương đối khoan dung, nhưng ở Tây La Mã thì các triết gia Hy Lạp và môn đệ phải rút về vùng Tiểu Á và Ả Rập để sinh tồn và có thể tiếp tục nghiên cứu. Kể từ đây, chỉ có một luồng triết học duy nhất được nghiên cứu và triển khai, đó là triết lý thần học Kitô. Tu viện từ nay đóng vai trò độc tôn trong nhiệm vụ này.

Đến đầu thế kỷ thứ 7, tín đồ các tôn giáo khác phải lánh nạn ra khỏi đế chế La Mã, hoặc cải đạo sang Kitô giáo, một phần vì sợ hãi, phần khác do các toan tính cơ hội chủ nghĩa. Ngoại trừ những cộng đồng nhỏ bé người Do Thái còn được phép tồn tại, ngoài ra thì tình trạng độc giáo Kitô kéo dài hơn 1000 năm sau trên lục địa châu Âu, với những hệ lụy tất yếu của nó về chính trị, văn hóa, xã hội và cả về nghiên cứu khoa học.

Những quyết định nói trên mang tầm vóc thiên niên kỷ. Chúng để lại dấu ấn rất sâu đậm lên nền văn hóa châu Âu cho đến bây giờ. Một mặt, giáo lý Kitô trở thành chuẩn mực đạo đức trong xã hội, làm khuôn mẫu cho những hoạt động hướng thiện của con người, khuyến khích tín đồ làm những việc về thần khí, hướng đến cái đẹp hoàn mỹ vĩnh cửu. Lòng tin vào đấng Thượng Đế toàn năng, toàn tri và toàn thiện đã khuyến khích người trần thế tôn trọng những giá trị cao cả như bác ái, bình đẳng, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ, vì Kitô giáo không chỉ là lý thuyết, mà đó là tôn giáo sống động đưa lại giải thích và hướng dẫn cuộc sống cho tín đồ[13].

Đấy là khía cạnh tích cực. Nhưng mặt khác, giáo hội Kitô đã lợi dụng ưu thế của mình để chi phối đời sống vật chất và tinh thần trong xã hội. Người ta quãng bá một tinh thần nhất quán rằng, Thánh Kinh chứa đựng những lời giáo huấn của Đức Chúa Trời cần được xem như là tuyên ngôn về bản tính và ý định của chính Thượng Đế, cho nên chân lý đó không ai có quyền tranh cãi, chứ chưa nói gì tới phản đối.

Vì vậy, nền văn hóa Kitô chi phối lên tất cả mọi mặt trong đời sống. Nhân sinh quan, vũ trụ quan của giới có ăn học đều được hướng dẫn trong Kinh thánh và những văn bản diễn giải đi kèm của giáo hội, không ai có quyền phản biện. Cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên cũng thế. Cấu tạo của vũ trụ như thế nào? Con người sinh ra từ đâu? Qui luật chuyển động của vật chất ra sao? Tất cả các câu hỏi đó không cần đặt ra, không phải là đối tượng để tìm tòi nghiên cứu. Chúng đã được trả lời minh bạch trong Thánh kinh và các hướng dẫn của giáo hội. Phản biện lại những điều đó là một tội khó tha thứ, sẽ bị tòa Thánh kết án nghiêm khắc. Chúng ta sẽ trở lại phiên tòa Gallileo Galilei năm 1633 để lý giải thêm và xem xét những tai hại nào mà giáo hội Kitô đã để lại cho nền khoa học châu Âu trong thời trung cổ và thời kỳ tiền hiện đại.

Về mặt chính trị, ảnh hưởng của giáo hội lên vương quyền vô cùng to lớn. Chỉ trong vòng 31 năm cầm quyền từ 306 đến 337, Constantine đã tạo nên một thế trận không thể nào đảo ngược. Ông dành nhiều hỗ trợ tài chánh cho nhà thờ, cho phép nhiều quyền lợi luật định như miễn thuế cho giáo hội, đưa nhiều người trong hàng giáo phẩm vào các chức vụ cao trong quân đội và hành chánh hoàng triều. Dần dần giáo lý Kitô trở thành nguyên lý biểu tượng của Rome, giáo hội trở thành cơ cấu lãnh đạo trong đế chế[14].

Ý thức hệ tôn giáo vì thế đã ăn sâu vào đời sống chính trị, ảnh hưởng lên các quyết định  của vua chúa và vương triều. Hàng giáo phẩm là cố vấn cao cấp cho vua chúa và chính quyền địa phương. Giáo sĩ được vương triều trả lương, nhà thờ là tài sản riêng của giáo hội và được thừa kế theo luật pháp[15]. Luật La Mã còn khuyến khích đưa giáo sĩ và giám mục vào hệ thống cai trị thành phố[16]. Giám mục địa phận kiêm chức thị trưởng thành phố là chuyện hết sức bình thường.

Những gì về Kitô giáo mà đế chế La Mã để lại có tác dụng cả ngàn năm. Ở cấp cao thì Giáo hoàng có thể làm trọng tài phân xử tranh chấp giữa các quốc gia, thí dụ như sắc dụ Giáo hoàng trong tranh chấp giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha về vùng ảnh hưởng ở châu Mỹ cuối thế kỷ 15[17]. Một sự kiện đặc biệt khác ở cuối thời trung cổ là sắc dụ Giáo hoàng Romanus Pontifex tháng 10.1455 đã hợp thức hóa cho Bồ Đào Nha chiếm hữu và buôn bán nô lệ từ các vùng Nam châu Phi[18]. Đấy là chưa kể, trong nhiều giai đoạn khác nhau của thời trung cổ, sự tranh giành quyền lực giữa Giáo hoàng và vua chúa đã dẫn đến nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu.

Sự gắn kết ý thức hệ tôn giáo vào chính trị đã kềm hãm sự phát triển xã hội châu Âu suốt nhiều thế kỷ. Mãi đến thế kỷ 17, châu Âu mới tự giải phóng ra khỏi vòng kìm tỏa của tôn giáo để đưa xã hội tiến lên, khi các nghiên cứu khoa học làm bộc lộ những nhận thức phản khoa học trong giáo lý Kitô, nhất là khi phong trào cải cách tôn giáo đã tố cáo sự gian lận của giáo hội trong việc lý giải Thánh kinh theo quan điểm có lợi cho quyền lực của hàng giáo phẩm. Trong thế kỷ thứ 4 khi vừa trở thành quốc giáo, giáo hội là cơ cấu hoạt động hiệu quả để cứu vãn và phát triển Kitô giáo. Nhưng sau đó không lâu, khi sự thanh cảnh khiêm tốn nhường chỗ cho giàu sang vừa đạt được, chính giáo hội đã bị tha hóa trong biển rộng mênh mông của quyền lực, ưu đãi vật chất và mưu đồ lèo lái giáo dân bằng những diễn giải đi ngược tinh thần Kitô.

Chúng ta sẽ dành nhiều thì giờ hơn trong các chương sau để khảo sát ảnh hưởng của văn hóa Kitô giáo trong thời trung cổ cũng như tổ chức giáo hội và cộng đồng Kitô qua các thời kỳ.

Đế chế La Mã và sự chia rẽ tây Âu – đông Âu

Constantine đánh dấu một thời đại mới trong nền chính trị đế chế La Mã. Một kinh đô mới, một chính sách mới và một tôn giáo mới. Những sáng kiến mà Constantine thực hiện trong đế chế được đón nhận và thánh hóa bởi nhiều thế hệ kế tục[19]. Với sự thành lập kinh đô Constantinople[20] vô cùng tráng lệ, nền chính trị dần dần chuyển trọng điểm về phía đông. Đế chế La Mã thường trực có hai vua trị vì từ hai thành phố khác nhau. Quá trình chuyển dịch kéo dài đến năm 395, khi Theodosius mất và hai người con lên trị vì đồng ý chia đế chế thành hai vùng độc lập: Honorius (384–423) cai trị Tây La Mã có kinh đô là Rome và Arcadius (377–408) cai trị Đông La Mã lấy Constantinople làm kinh đô.

Đông La Mã, từ nay có thể gọi là Byzantine bao gồm vùng Hy Lạp và lân cận, thêm vùng Balkans gồm khu vực hiện nay là Albania, Macedonia, Bulgaria, Montenegro, Bosnia, Kosovo và Serbia, thêm vùng ven bờ Địa Trung Hải trải dài từ Thổ Nhĩ Kỳ đến tận Ai Cập (xem bản đồ bên dưới). Tây La Mã bắt đầu từ vùng đất hiện nay là Croatia, Áo, Tiệp sang tận Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Anh và vùng ven bờ biển bắc Phi.

Theodosius không hề tiên đoán được những gì sẽ xảy ra do sự chia cắt này. Số phận châu Âu từ nay gắn liền với sự chia cắt đông-tây với sự phát triển hai miền ngày càng khác nhau, mỗi bên đi theo một hướng. Đông La Mã chịu ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp và Giáo hội Chính thống, trong lúc Tây La Mã có văn hóa la-tinh và thuần phục Giáo hội La Mã; sự phát triển xã hội khác nhau, kinh tế cũng khác nhau; từ đó trình độ văn minh và sự giàu có cũng khác nhau.

ost-west-rome

Hình [1]: Phân chia đế chế thành Đông và Tây La Mã. Nguồn: Creative Commons CC-BY-SA-4.0, tác giả: Novarte

0