11/05/2018, 14:44

Khái niệm và nội dung cơ chế thị trường

a) Khái niệm cơ chế thị trường Như đã biết, trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, v.v.. Các quy luật đó đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường . Nhờ sự vận động ...

a) Khái niệm cơ chế thị trường

Như đã biết, trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh, v.v..
Các quy luật đó đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường. Nhờ sự vận động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội (tổng cầu), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội.

Vậy cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung – cầu, cạnh tranh … trực tiếp phát huy tác dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường là một bộ máy tinh vi để phối hợp một cách không tự giác hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất. Cơ chế thị trường tự phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có thị trường và do đó có cơ chế thị trường hoạt động.

Nội dung cơ chế thị trường

*Tín hiệu của cơ chế thị trường là giá cả thị trường

Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường của hàng hoá. Giá cả thị trường có những chức năng chủ yếu sau đây:
– Chức năng thông tin: Những thông tin về giá cả thị trường cho người sản xuất biết được tình hình sản xuất trong các ngành, biết được tương quan cung – cầu, biết được sự khan hiếm đối với các loại hàng hoá. Nhờ đó mà những đơn vị kinh tế có liên quan ra được những quyết định thích hợp. Như vậy những thông tin về giá cả điều chỉnh hướng sản xuất và quy mô sản xuất, từ đó điều chỉnh cơ cấu sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu của xã hội.

– Chức năng phân bố các nguồn lực kinh tế. Sự biến động của giá cả sẽ dẫn đến sự biến động của cung – cầu, sản xuất và tiêu dùng và dẫn đến sự biến đổi trong phân bố các nguồn lực kinh tế. Những người sản xuất sẽ chuyển vốn từ nơi giá cả thấp, do đó lợi nhuận thấp đến nơi giá cả hàng hoá cao, do đó lợi nhuận cao, tức là các nguồn lực sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử dụng với hiệu quả cao nhất, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu.

– Chức năng thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật. Để có thể cạnh tranh được về giá cả, buộc những người sản xuất phải giảm chi phí đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Do đó thúc đẩy sự tiến bộ của kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ngoài ra giá cả còn thực hiện chức năng phân phối lại.

Trước đổi mới, ở nước ta thực hiện cơ chế hai giá: giá cả theo kế hoạch (giá bao cấp) và giá cả trên thị trường tự do. Giá cả theo kế hoạch thấp hơn rất nhiều so với giá cả trên thị trường tự do. Nói chung giá cả đó gần như không có quan hệ gì với giá trị hàng hoá, cũng như không tương quan đến cung cầu, nên mọi sự tính toán hiệu quả đều sai lệch. Bao cấp qua giá là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt lớn của ngân sách, do đó dẫn đến lạm phát.

Việc chuyển sang cơ chế một giá – giá cả thị trường đối với tất cả các loại hàng hoá, chỉ trừ một số rất ít hàng hoá do Nhà nước định giá là bước chuyển có ý nghĩa quyết định từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường ở nước ta.

* Giá cả thị trường phụ thuộc vào các nhân tố dưới đây:

Thứ nhất, Giá trị thị trường.

Giá trị thị trường là kết quả của sự san bằng các giá trị cá biệt của hàng hoá trong cùng một ngành thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn tới hình thành một giá trị xã hội trung bình. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của sức sản xuất của mỗi ngành mà giá trị thị trường có thể ứng với một trong ba trường hợp sau đây:

– Trường hợp 1, giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định. Đây là trường hợp phổ biến nhất.

– Trường hợp 2, giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện xấu quyết định.

– Trường hợp 3, giá trị thị trường hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện tốt quyết định.

Thứ hai, Giá trị (hay sức mua) của tiền.

Giá cả thị trường tỷ lệ thuận với giá trị thị trường của hàng hoá và tỷ lệ nghịch với giá trị (hay sức mua) của tiền. Bởi vậy, ngay cả khi giá trị thị trường của hàng hoá không đổi thì giá cả hàng hoá vẫn có thể biến đổi do giá trị của tiền tăng lên hay giảm xuống. Sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và giá trị thị trường là hiện tượng đương nhiên, là “vẻ đẹp” của cơ chế thị trường, còn sự phù hợp giữa chúng chỉ là ngẫu nhiên.

Thứ ba, Cung và cầu

Trong nền kinh tế thị trường, cung và cầu là những lực lượng hoạt động trên thị trường. Cung – cầu không chỉ có mối quan hệ với nhau mà còn ảnh hưởng tới giá cả thị trường.

Trong thực tế, khi cung = cầu, thì giá cả thị trường ngang bằng với giá trị của hàng hoá. Khi cung > cầu, thì giá cả thị trường xuống thấp hơn giá trị hàng hóa. Còn khi cung < cầu, thì giá cả thị trường sẽ cao hơn giá trị. Như vậy cung và cầu thay đổi, dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng hóa. Đồng thời, giá cả thị trường cũng có sự tác động ngược trở lại tới cung và cầu. Nhìn chung, trong cơ chế thị trường khi không có sự nhất trí giữa cung và cầu, thì giá cả có tác động điều tiết đưa cung và cầu trở về xu hướng cân bằng nhau.

Thứ tư, Cạnh tranh.

Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền kinh tế thị trường nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người sản xuất, người sản xuất với người tiêu dùng hoặc giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng. Các cuộc cạnh tranh trên cũng là nhân tố dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng hóa.

0