25/08/2018, 00:06

Cao Bá Quát: Nhà thơ tiên tri thời cuộc

Cao Bá Quát: Nhà thơ tiên tri thời cuộc 1 Tàu buồm cỡ tàu Phấn Bằng Trần Nam Bình 1. Dẫn nhập Nhắc đến tên Cao Bá Quát người ta liên tưởng ngay đến một nhà thơ xuất chúng, một sĩ khí ngay thẳng không luồn cúi, một tâm hồn phóng khoáng cao thượng, và một tấm lòng ...

Cao Bá Quát: Nhà thơ tiên tri thời cuộc 1

caobaquat01 Tàu buồm cỡ tàu Phấn Bằng

Trần Nam Bình

1. Dẫn nhập

Nhắc đến tên Cao Bá Quát người ta liên tưởng ngay đến một nhà thơ xuất chúng, một sĩ khí ngay thẳng không luồn cúi, một tâm hồn phóng khoáng cao thượng, và một tấm lòng thương dân yêu nước 2.   Vì Ông mang tội phản nghịch, bị chu di tam tộc, cho nên các tài liệu về thân thế, hành trạng, văn thơ của Ông bị hủy diệt, thất lạc rất nhiều 3.   Ngày nay, có không ít giai thoại về tính tình kiêu hãnh, tự phụ hay tài thơ văn, ứng đối của Ông (ví dụ như câu nói bốn bồ chữ, câu thơ thi xã, câu đối cá đớp cángười trói người, sửa câu đối vua làm, bịa thơ tài hơn vua, vv) nhưng đại đa số có lẽ là huyền thoại do người đời sau bịa đặt, thêu dệt ra.  Ba ví dụ tiêu biểu như sau:

• Để chứng tỏ phẩm chất thanh cao, tự phụ của Cao Bá Quát, có thuyết cho rằng Ông là tác giả của câu đối ‘Thập tải luân giao cầu cổ kiếm, Nhất sinh đê thủ bái mai hoa’ (Mười năm chọn bạn như tìm thanh kiếm cổ, Một đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai).  Thật ra, đây là câu đối do Tri phủ Hán Dương Ngài Tuấn Mỹ tặng Phó sứ Nguyễn Tử Giản trong đoàn sứ bộ Vua Tự Đức phái sang triều cống nhà Thanh năm 1868.  Sự kiện này được ghi chép trong Yên Thiều Bút Lục của Nguyễn Tử Giản (1823–1890).  Tuy các nhà nghiên cứu tiền bối đã công bố tài liệu từ năm 1972, nhiều người, nhiều sách báo, kể cả sách giáo khoa, vẫn tiếp tục tương truyền câu đối trên là của Cao Chu Thần tiên sinh!

• Để chứng tỏ Cao Bá Quát là người kiêu căng, ngạo mạn, có giai thoại nói rằng khi nghe những bài thơ của Mạc Vân Thi Xã (cũng gọi là Tùng Vân Thi Xã) do Tùng Thiện Vương Miên Thẩm và Tuy Lý Vương Miên Trinh (con vua Minh Mạng) sáng lập, Ông bịt mũi lại và ngâm ‘Ngán thay cái mũi vô duyên, Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An’.  Chứng cớ thì sao?  Thứ nhất, văn thơ chữ Nôm của Cao Bá Quát gồm có ca trù, thơ Đường luật và phú nhưng không có thơ lục bát.  Thứ hai, theo các khảo cứu gần đây, chính Cao Bá Quát cũng là hội viên của Thi Xã khi còn ở Huế.  Thứ ba, quan trọng hơn cả, Cao Bá Quát và Tùng Thiện Vương là bạn thơ tâm đắc.  Khi Cao Bá Quát làm giáo thụ Quốc Oai (Sơn Tây), Tùng Thiện Vương nhờ Cao Bá Quát đề tựa cho bộ thơ Thương Sơn Thi Tập.  Cao Bá Quát viết tựa hai trang, trong đó có đoạn: ‘…Tôi theo Quốc công (Tùng Thiện Vương) chơi đã lâu.  Thơ của Quốc công đâu phải đợi đến ngày nay mới nói đến?  Và cũng đâu phải đợi đến Quát này mới có thể nói được?  Sáng ngày mai, đứng ở ngoài cầu Đốc Sơ trông về phía Nam… đó chẳng phải là núi Thương Sơn ư?  Mua rượu uống rồi, cởi áo ở nơi bắc trường đình, bồi hồi ngâm vịnh các bài thơ “Hà Thượng” của Quốc công, lòng khách càng cảm thấy xa xăm man mác…’ 

• Để chứng tỏ văn tài của Ông, người ta hay nhắc câu thơ ‘Văn như Siêu Quát vô tiền Hán’, tương truyền do Vua Tự Đức làm.  Nhưng chính câu này cũng đang bị xét lại tác giả có thật sự là vua Tự Đức hay không (Dân Trí, 2015)?

Là một nhân vật lịch sử, Cao Bá Quát đã được nhắc đến ít nhiều trong chính sử nhà Nguyễn.  Qua các tài liệu như Quốc triều Hương khoa lục hay bộ sử Đại Nam Thực Lục Chính Biên (ĐNTLCB4,  chúng ta có một số dữ kiện chính thức về thi cử, hoạn lộ, chuyến công vụ của Ông sau vụ án sửa bài thi và vụ nổi loạn Mỹ Lương.  Gom góp lại các nghiên cứu về chuyến công vụ đi Hạ Châu (Singapore) của Cao Bá Quát, bài viết này có hai mục đích chính.  Thứ nhất, tìm hiểu xem chuyến công vụ này có ý nghĩa gì với triều đình nhà Nguyễn và Cao Bá Quát đóng vai trò gì trong chuyến đi đó.  Thứ hai, nhà thơ Cao Bá Quát đã cảm nhận như thế nào khi tiếp xúc, va chạm với văn minh tây phương.  Đây là hai câu hỏi mà những người Việt quan tâm đến lịch sử nước nhà vào thời cận đại nói chung và Cao Bá Quát nói riêng, muốn tìm hiểu kỹ càng.

Động cơ của bài viết là sự hiểu biết tương đối phiến diện, nếu không nói là ngộ nhận, về Cao Bá Quát của giới trí thức, sinh viên, học sinh miền Nam trước 1975 (trong đó có người viết).  Tuy nghiên cứu trong miền Nam về Cao Bá Quát không ít, nhưng chưa có khảo cứu thật sâu về Ông, chủ yếu vì thiếu thốn tài liệu, văn thơ 5.   Hơn nữa, tuy Cao Bá Quát có trong danh sách các nhà thơ nằm trong chương trình Việt văn lớp đệ tam thời Việt Nam Cộng Hòa (xem Dương Quảng Hàm 1968: 357, 362-3), số lượng thơ của Ông được mang vào giáo trình rất ít ỏi, chỉ gồm vài bài hát nói tiếng Nôm (xem Dương Quảng Hàm 1962: 13940), không thể phản ánh toàn diện, chính xác một nhà thơ hiện thực, đa dạng như Ông.  Qua hai bài hát nói trong giáo trình (Uống rượu tiêu sầu và Ngán đời), Cao Bá Quát bị xem là một nhà thơ có xu hướng bi quan yếm thế, thích cầu nhàn, hưởng lạc!   Trong tinh thần đi tìm hiểu đúng đắn hơn về Cao Bá Quát, bài viết này có thể xem như là là một món quà bé nhỏ kính dâng lên tiền bối Chu Thần họ Cao nhân dịp kỷ niệm lần 210 năm sinh của Ông.

Bố cục các phần còn lại của bài viết như sau.  Phần 2 giới thiệu nguồn gốc sự tham gia của Cao Bá Quát trong chuyến công vụ Hạ Châu.  Phần 3 thảo luận về ý nghĩa của chuyến công vụ Hạ Châu.  Phần này đúc kết lại các khám phá rất thú vị của nhà nghiên cứu sử học, cố Giáo sư sử học Vĩnh Sinh (2004), nhà nghiên cứu Đông Nam Á học Claudine Salmon và cố Giáo sư Việt học Tạ Trọng Hiệp (1994).  Chúng ta sẽ thông hiểu ý nghĩa của chuyến công vụ này hơn khi đặt nó trong bối cảnh lịch sử thời kỳ đó.  Dựa trên các sáng tác của Cao Bá Quát trong chuyến công vụ Hạ Châu, Phần 4 tìm hiểu vai trò của Cao Bá Quát trong lúc Phần 5 xem xét tư duy và tâm trạng của Ông trong chuyến đi xa này.  Các phân tích trong Phần 5 cho thấy Cao Bá Quát không phải chỉ là một thiên tài văn học mà còn là một trí thức tiến bộ đã linh cảm được các biến chuyển chính trị tương lai.  Trong phần kết luận, người viết suy đoán về sự liên hệ, nếu có, giữa chuyến công vụ Hạ Châu và cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương sau này.

2. Vụ án sửa bài thi và giam cầm

Cao Bá Quát đỗ á nguyên kỳ thi hương 6 tại Thăng Long năm 1831 đời vua Minh Mạng, nhưng đến khi duyệt quyển, Ông bị triều đình xếp cuối bảng 20 cử nhân khóa ấy.  Ông đi thi hội nhiều lần không đậu.  Đến năm 1841 (Thiệu Trị nguyên niên), Ông được quan tỉnh Bắc Ninh (Cao Bá Quát sinh ở tỉnh này) tiến cử vào kinh đô Huế làm chức hành tẩu Bộ Lễ (tương đương với các Bộ Thông Tin và Giáo dục Đào tạo hiện nay).  Đây là một chức quan nhỏ, có nhiệm vụ truyền đạt các mệnh lệnh của vua hay các quan thượng thư.

Tháng tám năm 1841 Cao Bá Quát được bổ làm sơ khảo 7 trường thi hương Thừa Thiên (đây là ân khoa nhân dịp vua Thiệu Trị mới lên ngôi).  Lúc chấm bài thấy 24 quyển viết hay nhưng lỡ phạm húy, Ông bàn với bạn đồng sự (và đậu cử nhân cùng khóa) là Phan Nhạ lấy muội đèn làm mực chữa lại.  Sự việc bị phát giác, Ông bị tống giam vào ngục Trấn Phủ rồi chuyển đến ngục Thừa Thiên năm 1842.  Bộ Lễ và Viện Đô sát tra xét, khép Cao Bá Quát và Phan Nhạ vào tội tử hình.  Nhưng khi án đưa lên, vua Thiệu Trị thương tình đã giảm cho hai Ông từ tội chém đầu xuống tội ‘giảo giam hậu’, tức là giam lại chờ ngày bị thắt cổ (được chết toàn thây kể như tội nhẹ hơn) (theo ĐNTLCB Tập 5: 243-4).

Trong khi Bộ Lễ xét xử, Cao Bá Quát đã bị tra tấn dã man.  Điều này được diễn tả qua bài thơ tiếng Hán Thập nguyệt thập thất nhật thừa lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí tứ thủ (Ngày 17 tháng 10, sau khi bộ Lễ tra tấn nặng nề xong, gượng đau viết luôn bốn bài) 8.   Các sáng tác của Ông trong thời kỳ, gồm rất nhiều bài thơ bằng tiếng Hán, khá phong phú về ý tứ, và giúp chúng ta hiểu thêm về hành trạng của Ông lúc bị giam cầm.

Sau cùng án đổi thành ‘dương trình hiệu lực phục vụ quân thứ’ nghĩa là xung vào lính đi nước ngoài lấy công chuộc tội.  Vào khoảng cuối năm 1843, Cao Bá Quát được triều đình phát phối đi Đà Nẵng, chờ ngày theo phái đoàn Đoàn Trí Phú đi dương trình.

3. Ý nghĩa chuyến công vụ Hạ Châu

Muốn thông hiểu ý nghĩa chuyến công vụ dương trình của Cao Bá Quát, chúng ta cần xem xét bối cảnh lịch sử chính trị thời đó, đặc biệt là vai trò của Vua Minh Mạng, ngày nay được đánh giá là hoàng đế có nhiều cải cách nhất của nhà Nguyễn, nhất là trong chính sách biển đảo.  Tuy bị xem như một hoàng đế rất bảo thủ trong tư tưởng, tôn giáo và tàn bạo trong việc đối xử với người Chiêm Thành, vua Minh Mạnh đã khuyến khích phát triển khoa học, kỹ thuật phương tây.  Vua đã có nhiều đổi mới đáng kể như cải tiến kỹ thuật đóng thuyền, phát triển hải quân, chiếm hữu biển đảo, vv.  Các cải cách này có thể xem như nguyên nhân dẫn đến chuyến công vụ mà Cao Bá Quát tham dự đầu năm 1844.

Chúa Nguyễn Phúc Ánh (vua Gia Long) khi còn ở Gia Định vào cuối thế kỷ 18 đã triển khai việc đóng thuyền theo kiểu phương tây dưới sự cố vấn của người Pháp (Nguyễn Văn Đang 2003).  Đến thời vua Minh Mạng, việc đóng thuyền được tiếp tục với các quy trình chặt chẽ hơn, biểu hiện rõ nhất là thuyền bọc đồng và thuyền máy hơi nước.  Ngành đóng thuyền là một thành phần cốt yếu trong chính sách hải quân và kinh tế biển dưới thời vua Minh Mạng 9.   Rất đáng tiếc, các vị vua kế tục Ông đã không phát huy được chính sách đó, đặc biệt trong lĩnh vực đóng thuyền hơi nước.  Vì thế, so với nước láng giềng như Thái Lan, dù Việt Nam đi trước nhưng lại bị tụt hậu trong việc phát triển tàu hơi nước (Nguyễn Văn Đang 2003).

Chương trình cải tiến đóng thuyền của vua Minh Mạng rất có bài bản.  Năm 1822, Vua cho mua một chiếc thuyền bọc đồng cũ của Pháp (Điện Dương) đưa về Huế, sai thợ đóng lại theo mẫu 10.   Sau đó hàng loạt thuyền bọc đồng được sản xuất, chủ yếu dùng là thuyền chiến, một số còn lại dùng trong các chuyến công vụ nước ngoài.  Đến năm 1838, vua cho mua một chiếc tàu máy hơi nước cũ của Pháp, tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử.  Năm sau, xưởng đóng tầu tại Huế hoàn thành hai chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên của nước ta và chạy thử thành công.  Nói tóm lại, nhiều thập niên trước 1844, Việt Nam đã có truyền thống mua tàu nước ngoài về bắt chước sản xuất hay sửa chữa lại.  Một bằng chứng về kỹ thuật đóng thuyền của Việt Nam là sau khi thất bại trong Chiến tranh Nha phiến (183942), các quan nhà Thanh đã đề nghị chế tạo bốn loại thuyền Việt Nam để phòng thủ các cửa sông Trung Quốc (Hồ Bạch Thảo 2017).

Thật ra, truyền thống đi nước ngoài đã bắt đầu với chúa Nguyễn Phúc Ánh vào cuối thập niên 1870 khi Chúa cần mua vũ khí và đạn dược cho cuộc chiến tranh chống nhà Nguyễn Tây Sơn (Salmon 2013: 136).  Trong hai đời vua Minh Mạng và Thiệu Trị, có rất nhiều chuyến công vụ dương trình (xem Salmon 2013: 136) với nhiều mục đích khác nhau, ví dụ như (Vĩnh Sinh 2004: 34):
• năm 1832: diễn tập đi biển,
• năm 1835: tìm hiểu tình thế cùng phong tục,
• năm 1840: chọn mua hàng hóa, và
• năm 1842: diễn tập đi biển và giải quyết những vấn đề chưa làm xong cho nội vụ phủ.

Về kinh tế, bản chất của các chuyến tàu công vụ này là một công cụ của nhà vua nhằm nắm độc quyền bán các mặt hàng cấm (không cho tư nhân Việt Nam bán cho người nước ngoài như lúa gạo, vàng bạc, muối, tiền, trầm hương, vv) và mua một số mặt hàng cho triều đình (Trần Nho Thìn 2009).  Cụ thế hơn, cố Giáo sư Vĩnh Sinh (2004: 34) dùng báo cáo của ký giả Isodore Hedde (đã đến Việt Nam xuân 1844) cho biết chi tiết các mặt hàng xuất nhập giữa Việt Nam và Tân Gia Ba lúc đó như sau.  Việt Nam

• bán lụa chế tạo tại Trung Quốc và Việt Nam, trà xanh, vải trúc bâu Nam Kinh, gạo, đường, muối, quế, sừng tê giác, ngà voi, da trâu, gỗ quý, vàng bạc; và

• mua vải lạc đà, hàng bông thường có khổ dài để may áo quần cho quân đội, thiếc, nha phiến (hàng cấm nhập cảng Việt Nam), súng ống, và một số sản phẩm Ấn Độ.

Về chính trị thì tình hình các nước chung quanh Việt Nam lúc đó như sau.  Phi Luật Tân đã là thuộc địa của Tây Ban Nha từ thế kỷ 16.  Nam Dương trở thành thuộc địa của Hà Lan vào năm 1800.  Một số thuộc địa của Hà Lan trên eo biển Malacca được chính thức nhường cho Anh quốc vào quãng 1824.  Vì thế, những chuyến công vụ xuất ngoại nói trên chắc ít nhiều có mục đích tìm hiểu tình hình các thuộc địa này và động thái của người Âu tây tại Đông Nam Á, đặc biệt là người Anh và người Hà Lan.

Theo chính sử (ĐNTLCB Tập 5: 6189, 700 & 752), chuyến đi của phái bộ Đào Trí Phú trên thuyền Phấn Bằng 11 năm 1844 là đến Giang Lưu Ba, với mục đích chính thức là thao diễn đường thủy và nhân tiện tìm mua các vật hạng.  Giang Lưu Ba là phiên âm tiếng Việt của Kelapa (tiếng Mã Lai nghĩa là dừa) sau này bị người Hà Lan chiếm đóng và đổi tên thành Batavia, ngày nay là thành phố Gia Các Ta (Jakarta).  Các phái bộ Việt Nam có xu hướng viết gọn Giang Lưu Ba thành Ba Quốc, Ba Lăng, Ba Thành hay Ba Sơn (Salmon 2013: 141).  Chuyến công vụ năm 1844 của Đào Trí Phú bắt đầu tháng 1 và chấm dứt tháng 7 năm 1844.  Một trong những món hàng mà phái bộ mua về là chiếc tàu hơi nước cỡ lớn, trị giá hơn 28 vạn quan 12,  mà vua Thiệu Trị đặt tên là Điện Phi (nhanh như bay).

Cao Bá Quát có nhắc đến Giang Lưu Ba trong bài thơ Đề sát viện Bùi công 13  Yên Đài anh ngữ khúc hậu (Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của quan Đô sát họ Bùi) làm sau chuyến công vụ.  Bài này có câu ‘Tự tòng phiếm hải lịch Ba Sơn’ (Từ khi vượt biển đến Ba Sơn).  Theo nhà nghiên cứu Salmon (2013: 141) thì Ba Sơn chính là Giang Lưu Ba.  Như vậy, câu dịch thoát ‘Tân Gia từ biệt con tàu’ của Trúc Khê nên sửa lại thành “Nam Dương từ biệt con tàu’.  Cụ thể hơn, hai nhà nghiên cứu Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp (1994: 134135) đưa ra hai bài thơ thất ngôn bát cú tiếng Hán mà Cao Bá Quát làm ra ở Giang Lưu Ba: một bài trả lời hỏi thăm của một thương gia già bán vải, và một bài nhân dịp đến thăm tư gia và thư viện của Trung úy Souw Tian Pie (Su Tianbi, 18161870), một nhà lĩnh đạo cộng đồng người Hoa tại Java 14.   Đây là hai bài thơ ít người biết đến.

Hai nhà nghiên cứu Salmon & Tạ (1994) đã tìm hiểu chi tiết hơn về chuyến hải trình này.  Dựa vào Chu Thần Cao Ngâm Tập (tập II, trang 441461, bài 5792) hiện đang lưu trữ tại thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, Salmon & Tạ (1994: cước chú 4, 125) đề xuất chuyến công vụ 1844 của Cao Bá Quát bắt đầu từ Đà Nẵng, đi ngang Bạch Thạch Cảng (Pedra Branca), ghé Tân Gia Ba (Singapore), đi ngang Liêu Cảng (Riau), quần đảo Long Nha (Lingga) phía đông của Sumatra, và cuối cùng đến Giang Lưu Ba 15

Trở lại tàu Điện Phi, chính sử không chép rõ là mua từ đâu, mà chỉ nói mua từ Tây dương (Vĩnh Sinh 2004; 33).  Từ Tây dương ở đây không thể là Âu châu mà hàm ý các thuộc địa của người Âu châu tại Đông Nam Á.  Trong các sáng tác của Cao Bá Quát trong thời kỳ này có bài Hạ Châu tạp thi (Thơ vặt làm ở Hạ Châu).  Điều này cho thấy chuyến công vụ của Cao Bá Quát đã đi ngang Hạ Châu.  Nhưng Hạ Châu là địa điểm nào?  Cố sử gia Vĩnh Sinh (2004: 33) lập lại lời học giả Chen ChingHo (Trần Kinh Hòa) cho biết Hạ Châu vào đầu thế kỷ 19 được dùng để chỉ Penang và Malacca (thuộc Mã Lai).  Nhưng khi Tân Gia Ba (Singapore) trở thành nhượng địa của Anh Quốc và khai trương năm 1819, thì Hạ Châu bao gồm cả Penang, Malacca và Tân Gia Ba, tức là các thuộc địa của người Anh trên eo biển Malacca (gọi chung là Straits Settelments). Trong bài Hồng mao hỏa thuyền ca (Bài ca về tàu hơi nước của người Anh), Cao Bá Quát có câu ‘Lặc tử châu đầu hắc vân hợp’ (Đầu bãi Lặc tử mây tụ đen kịt) mà Lặc tử là biệt hiệu của Tân Gia Ba.

Chuyến công vụ của Cao Bá Quát như vậy đã ghé đến Tân Gia Ba.  Điều này hợp lý, vì Tân Gia Ba nằm trên đường đi Giang Lưu Ba.  Sau chuyến hải trinh dài, thuyền Phấn Bằng cần ghé bến để lấy nước uống, tiếp tế lương thực, mua bán một số mặt hàng, vv.  Nhưng thơ văn của Cao Bá Quát cho thấy thuyền Phấn Bằng đã dừng lại ở Tân Gia Ba khá lâu.  Như vậy phái bộ còn làm việc gì khác ở Tân Gia Ba nữa không?

Tham khảo các nguồn tư liệu tiếng Anh, học giả Vĩnh Sinh (2004: 34) cho biết vì chiến tranh Nha phiến giữa nhà Thanh và Anh quốc, vua Thái Lan lo sợ muốn mua tàu hơi nước qua công ty của thương gia Robert Hunter 16. Vụ mua bán theo giá thỏa thuận ban đầu bất thành, và Robert Hunter đã tìm cách bán thuyền này cho Việt Nam.  Ông Hunter đã hoàn tất thủ tục bán tàu đó cho Việt Nam với phái đoàn Đào Trí Phú ở Tân Gia Ba.  Như vậy chiếc tàu này đúng là tàu Điện Phi đã nhắc tới bên trên.

Tuy ĐNTLCB có dành một vài trang miêu tả về tàu Điện Phi, nhất là tốc độ của tàu (Vĩnh Sinh 2004: 33), nhưng không nói rõ tàu được chuyển về Việt Nam từ đâu, dùng để làm gì và số phận sau này ra sao?  Trong thơ của Cao Bá Quát trong chuyến công vụ Hạ Châu có bài về tàu hơi nước của người Anh, nhưng có lẽ đây không phải là tàu Điện Phi mà nhà Nguyễn đã đặt mua từ công ty Hunter (vì nếu đó chính là Điện Phi, thái độ Cao Bá Quát đã không e dè như vậy).  Chúng ta chỉ có thể phỏng đoán kịch bản hợp lý nhất, giống như lần trước 17,  là phái bộ Đào Trí Phú thuê người lái tàu Điện Phi từ Tân Gia Ba về Việt Nam.

Tóm lại, chuyến công vụ Hạ Châu mà Cao Bá Quát tham gia năm 1844 ghé bến Tân Gia Ba và Giang Lưu Ba, tức là những thuộc địa của người Anh và Hà Lan tại Đông Nam Á vào thời kỳ đó.  Vì đã có kinh nghiệm mua tàu từ nước ngoài, có lẽ trưởng đoàn Đào Trí Phú và phó trưởng đoàn Trần Tú Dĩnh đã được lệnh vua Thiệu Trị ghé Tân Gia Ba thương thảo và ký hợp đồng mua tàu Điện Phi trên đường đến (hay trở về từ) Giang Lưu Ba.

4. Chức trách và nhiệm vụ của Cao Bá Quát

Cao Bá Quát làm chức quan nhỏ, bị tội nặng suýt chết, phải đi ra nước ngoài đoái công chuộc tội.  Như thế, Ông làm chức gì và có nhiệm vụ gì trong chuyến công vụ Hạ Châu?  Điều này không thấy nói rõ trong chính sử.  Do đó, các nhà nghiên cứu phải suy diễn ra từ các chuyến công vụ trước đây hay từ văn thơ do Ông sáng tác trên đường đi.  Suy diễn từ các chuyến công vụ trong quá khứ không dễ dàng vì khác đời vua, khác mục đích, khác tội trạng.  Diễn dịch từ văn thơ rất gian nan vì Cao Bá Quát là nhà thơ đi trước thời đại, có nhiều ý lạ và cách diễn tả mới.  Nếu chỉ chú tâm vào nghĩa đen rất dễ đi đến hiểu nhầm.

Hiện nay có hai thuyết trái chiều nhau.  Thuyết đầu do các học giả tây học như Claudine Slamon và Tạ Trọng Hiệp (1994), và Vĩnh Sinh (2004) chủ xướng.  Họ cho rằng Cao Bá Quát giữ chức vụ khá cao trong chuyến công vụ Hạ Châu.  Thậm chí Salmon và Tạ (1994) còn gọi Cao Bá Quát là sứ thần Việt Nam (L’émissaire Vietnamien) trong tựa đề bài nghiên cứu của họ.  Ngược lại, nhà dịch thuật Thái Trọng Lai (2014) lại cho rằng Cao Bá Quát chỉ là anh lính thủy thủ trên tàu. Hai thuyết ngược nhau này sẽ được lần lượt khai triển dưới đây.

Theo khảo cứu của Salmon (2013) thì truyền thống dương trình hiệu lực bắt đầu thời vua Minh Mạng.  Các danh sĩ đã từng bị cách/giáng chức đi hiệu lực như sau: 
• Năm 1829, Lý Văn Phức phạm lỗi bị triều đình kết án.  Vua Minh Mạng ân xá cho đi hiệu lực đến Tiểu Tây dương (tức là Kolkata thuộc Bengal, Ấn Độ) qua ngã Hạ Châu vào đầu năm 1830.18 
• Đầu năm 1832, Hà Tông Quyền (sơ suất nhỏ trong việc duyệt tài liệu) và Phan Thanh Giản (thua trận khi đi dẹp loạn ở Chiên Đàn) đi hiệu lực đến Tân Gia Ba và Giang Lưu Ba.19 
• Cũng năm 1832, Phan Huy Chú (bị cách chức vì tội ‘lạm quyền’) đi hiệu lực đến Giang Lưu Ba.20 
• Cuối cùng Cao Bá Quát đi hiệu lực Tân Gia Ba và Giang Lưu Ba đầu năm 1844.21 Ngoài Cao Bá Quát còn một số người khác, ví dụ như Phan Nhạ, Hà Văn Trung.

Điểm cần nói ngay, khác với các danh sĩ đi trước, Cao Bá Quát làm chức rất thấp và tội thì nặng hơn rất nhiều.

Trong chuyến công vụ Hạ Châu năm 1844, cố Giáo sư Vĩnh Sinh (2004: 33) cho biết phái bộ gồm có: 
• trưởng đoàn (chánh biện) Đào Trí Phú 22  (nguyên tả tham tri bộ Hộ);
• phó trưởng đoàn (phó biện) Trần Tú Dĩnh 23 (viên ngoại lang nội bộ phủ);
• thừa biện Lê Bá Đĩnh (tháp tùng);
• tư biện Nguyễn Văn Bản và Nguyễn Văn Dao (tháp tùng);
• thị vệ Trần Văn Quý;
• hai người hiệu lực là Cao Bá Quát và Hà Văn Trung.

Như vậy, ngoại trừ Cao Bá Quát, phái bộ có nhiều văn quan cấp cao, khả năng Hán học cũng không đến nỗi kém.  Không thấy nói đến có bao nhiêu thủy thủ hay phục dịch.

Về chức vụ của Cao Bá Quát trong chuyến công vụ, Salmon & Tạ (1994) và Vĩnh Sinh (2004: 36) suy đoán từ hai câu thơ sau của Ông:

Nhật khiết ly cơ tam bách trản (Mỗi ngày uống 300 chén rượu) 
Bất phương hoán tác tiểu tham quân (Không phương hại khi gọi làm tham quân nhỏ)

Dựa trên câu thứ hai, các học giả bên trên kết luận là Cao Bá Quát làm chức tham quân trong chuyến công vụ.  Giáo sư Vĩnh Sinh (2004: 36) giải thích tham quân là ‘văn quan được phái vào doanh quân giúp trưởng đơn vị xây dựng và chiếu đấu, hàm chánh tứ phẩm văn giai hoặc hàm tòng tam phẩm văn giai’.  Dẫn thêm câu thơ ‘Phiếm sà mạn tự đàm Trương sứ’ 24  (Cũng chuyện cưỡi bè, cứ nói tràn đến Trương sứ) Giáo sư Vĩnh Sinh (2004: 36) còn suy diễn thêm Cao Bá Quát được biệt phái làm tham quân chắc hẳn có mục đích thu thập thông tin về tình hình nước ngoài.  Luận cứ của học giả Vĩnh Sinh dựa trên sự kiện là chuyến đi của Cao Bá Quát là chuyến công vụ Việt Nam đầu tiên sau khi chiến tranh Nha phiến kết thúc với sự đại bại của nhà Thanh hai năm trước đó.  Nếu quả đúng như thế, gọi Cao Bá Quát là sứ thần cũng không ngoa mặc dù chuyến công vụ này không phải là trao đổi ngoại giao chính thức.

Tuy nhiên các nhà nghiên cứu chủ xướng thuyết này không thể lý giải tại sao một viên quan lục phẩm, bị cách chức và mang tội khổ sai, lại được thăng chức tứ phẩm khi chưa hề làm gì để chuộc xong tội?  Không nhẽ chỉ có Cao Bá Quát mới có khả năng bút đàm hay thu thập thông tin trong chyến công vụ này?  Điều này còn khó tin hơn nữa nếu chúng ta xem lại chuyến đi hiệu lực của Hà Tông Quyền 12 năm trước. Hà Tông Quyền lúc đó là Hộ bộ thị lang sung nội các (tương đương với thứ trưởng ngày nay, tức là cao hơn chức Cao Bá Quát rất xa), chỉ vì sơ sót trong việc duyệt tài liệu (nhẹ tội hơn Cao Bá Quát), bị triều đình luận tội, ‘nhưng vua đặc cách ra lệnh cách chức, cho làm lính, phát đi đường biển để gắng sức làm việc chuộc tội’ (theo ĐNTLCB).

Nhưng nếu Cao Bá Quát đã không phải là tham quân thật sự, thì chúng ta cần thông hiểu cụm từ ‘tiểu tham quân’ như thế nào?  Nhà dịch thơ Thái Trọng Lai đã đưa ra một đề xuất, tuy không quy ước nhưng cũng không kém phần hợp lý.  Thứ nhất Thái Trọng Lai lý giải Cao Bá Quát ngẫu hứng đã sử dụng tiếng Pháp, ly cơ là âm Việt của liqueur.  Rượu liqueur là rượu mùi tương đối nhẹ (hơn rượu đế), uống bằng cốc nhỏ cho nên uống nhiều cốc vẫn chưa say, vẫn làm việc nhanh nhẹn như thường.  Quan trọng hơn, Ông Thái diễn dịch tiểu tham quân là kiểu chơi chữ của Cao Bá Quát: tiểu là mới, tham là tham gia, và quân là quân đội.  Như vậy, tiểu tham quân chẳng qua chỉ là một anh lính mới hay một thủy thủ bất đắc dĩ. 

Tuy ủng hộ cách diễn giải của nhà dịch thơ Thái Trọng Lai, người viết cho rằng Cao Bá Quát nếu phải là anh thủy thủ mới, cũng chỉ là trên danh nghĩa mà thôi.  Một văn nhân cả đời như Hà Tông Quyền hay Cao Bá Quát không có thể lực hay chuyên môn để làm lính đi biển đường xa.  Vì thế, nếu Cao Bá Quát phải thật sự làm nhiệm vụ lính thủy, chắc cũng là thỉnh thoảng mà thôi.  Như vậy Ông mới có thời giờ nhấm nháp ly cơ, làm thơ đối đáp với Trần Ngộ Hiên (tức là phó biện Trần Tú Dĩnh) cũng như bút đàm và thăm viếng các doanh nhân người Hoa địa phương.

Ngoài ra, trong bài thơ đã nhắc đến trong cước chú 24, Cao Bá Quát không những đã nói đến việc đi sứ ra nước ngoài mà còn xuống bút ‘Tiêu tiêu liên mạc nhất tham quân’ (Bên bức màn sen tiêu điều có một gã tham quân).  Liên mạc nghĩa đen là màn sen, nghĩa bóng là nơi giữ các văn thư trong các bộ, viện, vv.  Nếu tham quân Cao Bá Quát chỉ là anh lính quèn, thì tại sao lại có nói về văn thư và chuyện đi sứ?  Phải chăng Ông dùng điển tích xưa để nói lên ý muốn (hay hào khí) thay vì vai trò thật sự của mình trong chuyến công vụ?  Chưa thấy nhà dịch thơ Thái Trọng Lai giải nghĩa bài thơ này.  Tóm lại, vai trò, chức vụ và nhiệm vụ của Cao Bá Quát trong chuyến công vụ Hạ Châu vẫn là một điểm cần được làm sáng tỏ hơn.

Nhà thơ họ Cao nổi tiếng là người văn hay chữ tốt, biết nhiều điển tích Trung Hoa, có lẽ là người giỏi Hán văn nhất trong phái bộ.  Vì thế Ông đã được cử ra bút đàm với các thương gia người Hoa tại Tân Gia Ba và Giang Lưu Ba.  Ông không nhấc gì đến việc thương thảo, ký kết mua bán trong các cuộc bút đàm này, có thể vì đây không phải là công tác của Ông.  Nhưng Cao Bá Quát đã biểu lộ sự quan tâm và trao đổi ý thức về thời cuộc với các thương gia nói trên.  Không rõ đây có nằm trong mục đich thu thập thông tin về tình hình các thuộc địa người Âu tây ở Hạ Châu như cố Giáo sư Vĩnh Sinh (2004) đã đề xuất?  Hay đó chỉ là cảm xúc, động thái riêng tư của Cao Bá Quát?  Nếu quả thật Ông có nhiệm vụ thu thập thông tin, chúng ta cũng không hiểu rõ Ông đã báo cáo lên cấp trên như thế nào?

 
5. Quan sát, cảm nhận và tư duy của Cao Bá Quát

Tâm tình Cao Bá Quát trong chuyến công vụ Hạ Châu ắt hẳn là vui buồn lẫn lộn, tuy rằng vui nhiều hơn buồn.  Vui mừng vì được thoát cảnh ngục tù tra tấn và được cơ hội đoái công chuộc tội.  Hơn nữa, được xuất ngoại cũng có thể là điều Cao Bá Quát hằng yêu thích vì tính tình Ông thích đi đây đi đó và đã từng đặt chân đến nhiều nơi trên đất nước.  Buồn vì thân vẫn mang trọng tội, cách xa vợ con, không biết đến bao giờ mới được về quê tái ngộ gia đình. 

Trước khi lên thuyền đi công vụ, trong bài Phát vãng dương trình chu hành phó Đà Nẵng tẩu bút lưu thân thức (Bị đầy đi nước ngoài, qua biển Đà Nẵng, viết vội cho người thân), Cao Bá Quát viết:

Đà Giang dao vọng nhật đông biên (Biển Đà Nẵng trông xa về phía đông)
Đảo dữ, thương mang lô kì thiên (Đảo cồn muôn lớp sóng, đường đi nghìn trùng)
Tử khuyết vân yên thường ngọ mộng (Mây khói kinh thành, ban trưa thường nằm mộng)
Thiên nhai cầm kiếm thị đinh niên (Việc cầm kiếm bên trời, chính là lúc trai tráng này)

Như vậy, đi chưa xa, thân mang còn tội nặng, tâm sự ngổn ngang trăm mối, tâm hồn Ông đã dậy lên niềm vui phơi phới, hào khí ngất trời!

Nói chung, từ suy nghĩ và cảm nhận của Ông bộc lộ trong các bài thơ tiếng Hán làm trong chuyến công vụ Hạ Châu, chúng ta có thể suy diễn là nói chung Cao Bá Quát hào hứng và phấn khởi trong chuyến dương trình hiệu lực này.  Những bài thơ làm sau chuyến công vụ cho thấy Cao Bá Quát rất hài lòng về các kiến thức thu thập được trong chuyến hải trình Hạ Châu.

Chúng ta cũng không có nhiều bằng cớ về sự kham khổ của Cao Bá Quát trong chuyến đi này.  Nhưng lênh đênh trên biển nước hơn sáu tháng cũng không phải là chuyến đi thoải mái cho bất kỳ ai, nhất là cho một anh lính mới.  Qua bài thơ Thuyền hồi quá Bắc Dữ, dư bão bệnh sổ nhật hĩ, dạ bán đăng trường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm, nhân giản Trần Ngộ Hiên (Thuyền về qua đảo Băc Dữ, ta đã bệnh mấy ngày rồi, nửa đêm lên chỗ cột buồm trông ra bốn phía, chạnh lòng nhớ quê, viết đưa cho Ông Trần Ngộ Hiên), chúng ta biết Cao Bá Quát đã bị đau ốm ít nhiều trong chuyến công vụ Hạ Châu. Trong bài Đáp Trần Ngộ Hiên (Trả lời Trần Ngộ Hiên) Ông tiết lộ thêm: ‘Đa bệnh cánh trì khu’ (Nhiều bệnh chạy ngược xuôi).  Điều này phù hợp với các bài thơ khác cho biết Ông bị bệnh tiểu đường kinh niên. 

Vì Cao Bá Quát là danh sĩ Bắc Hà, chúng ta cũng có thể suy diễn rằng Ông đã được các thành viên của phái bộ đối xử tử tế, không phải làm việc cực nhọc.  Chứng cớ hiển nhiên nhất là Ông đã làm khá nhiều thơ đối đáp với phó biện Trần Ngộ Hiên.

Qua 46 bài thơ tiếng Hán trong Chu Thần Cao Ngâm Tập, Cao Bá Quát đã biểu lộ rất nhiều suy nghĩ, cảm xúc và nhận định khi tiếp xúc với văn minh nước ngoài, nhất là văn minh Âu tây.  Trong phần sau, chúng ta sẽ lần lượt phân tích các đề tài sau đây:

• sự lạc hậu của lối học Á đông và mở mang kiến thức khi xuất ngoại,
• khác biệt của người nước ngoài, nhất là phụ nữ phương tây,
• kinh ngạc trước văn minh kỹ thuật của các nước Âu tây,
• sự cảm thông với người Trung Hoa, và
• linh cảm bất an về tương lai nước nhà nói riêng và văn minh Á đông nói chung.

5(i) Lối học tụt hậu và kiến thức hẹp hòi trong nước

Là một người nổi tiếng thông minh khi còn bé, văn chương trác tuyệt, tham vọng có thừa, nhưng lại bị lận đận trong khoa cử, chắc hẳn Cao Bá Quát không ít thì nhiều đã tự đặt câu hỏi về sự thích hợp của lối học và thi cử nho giáo trong việc tuyển chọn hiền tài ra giúp nước trị dân.  Trong bài Hạ dạ vấn bốc đồng Hành Phủ (Đêm hè cùng Hành Phủ xem bói), Ông viết: ‘Ngô nghi dĩ quyết thập niên sơ, Nhất tiền bất trị văn chương sự’ (Ý ngờ của ta đã quyết mười năm trước, Chuyện văn chương không đáng giá một đồng tiền).

Nhưng dù sao, trước khi xuất ngoại, chắc hẳn Cao Bá Quát cũng khá tự tin về sự hiểu biết của mình, tiêu biểu nhất là việc Ông thường dùng điển tích, danh nhân hay sự kiện (có nguồn gốc Trung Hoa) trong văn thơ của mình.  Tuy thế trong bài Nhị thập nhị nhật đắc phong hí trình đồng châu(Ngày hai mươi hai thuận gió, viết đùa, trình các bạn cùng thuyền), Cao Bá Quát đã thẳng thắn tự phê bình như sau: 

Hoạn du tỉnh thức ngư thiên lý (Có cuộc hoạn du mới biết cá lớn nghìn dậm)
Ngu kiến chân thành báo nhất ban (Hiểu biết hẹp hòi như thấy beo có một vằn)

Đây không phải là lần tự phê biết người biết ta duy nhất.  Sau chuyến công vụ Hạ Châu, Ông lại trực tiếp đả kích lối học từ chương, giọt dũa câu văn, dồi mài kinh sử của nước ta thời đó trong bài Đề sát viện Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu với một đoạn như sau: 

Ta ngã bế hộ điêu trùng, xỉ khẩu giảo văn tự (Ta đóng cửa, nhai văn, gậm chữ bao lâu rồi)
Hữu như xích hoạch lượng thiên địa (Khác nào con sâu đo trời đất)
Tự tòng phiếm hải lịch Ba Sơn (Từ lúc vượt bể qua Ba Sơn)
Thuỷ giác lục hợp hà mang mang (Mới hay sáu cõi rộng mênh mang)
Hướng tích văn chương đẳng nhi hí (Chuyện văn chương thật trò trẻ con)
Thế gian thuỳ thị chân nam tử (Bậc tài trí trong thế gian này)
Uổng cá bình sinh độc thư sử (Sao lại mụ người đọc sách sử)

Trúc Khê dịch:
Nhai văn nhả chữ buồn ta,
Con giun còn biết đâu là cao sâu.
Tân Gia từ vượt con tầu,
Mới hay vũ trụ một bầu bao la.
Giật mình khi ở xó nhà,
Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi.
Không đi khắp bốn phương trời,
Vùi đầu án sách uổng đời làm trai.

Trong việc phê phán lối học từ chương, thi cử lạc hậu, nêu ra các nhược điểm của giáo dục Khổng nho thời nhà Nguyễn, Cao Bá Quát có thể xem là người đi tiền phong cho các đề xuất canh tân của các nhà nho tiến bộ như Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ và Bùi Viện sau này (xem Nguyễn Thị Tính 2015: 107).

5(ii) Nhận xét về người nước ngoài

Qua các sáng tác trong chuyến công du, Cao Bá Quát chứng tỏ cái nhìn tinh tế và không thiên kiến về con người và văn hóa nước ngoài.  Ông mau chóng nhận thức những khác biệt về ngoại hình, ăn mặc, thói quen, cử chỉ, tư duy, hành xử và đời sống giữa người Á đông và nước ngoài, đặc biệt là người Âu tây. 

Về ngoại hình của người phương tây, Cao Bá Quát có vài quan sát hiển nhiên, ví dụ như ‘Ba Tư cao kỳ tỵ’ (Người Ba Tư có sóng mũi cao) trong Quan Hải 25 tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên (Ba mươi sáu vần thơ Quan Hải trình Trần Ngộ Hiên).  Tuy không trực tiếp ca ngợi nhan sắc của phụ nữ Âu tây, Cao Bá Quát có một câu thơ chứng tỏ Ông yêu thích vẻ đẹp của người đàn bà da trắng: ‘Dương nữ như hoa thướng xa khứ’ (Cô gái Tây đẹp như hoa lên xe đi).

Về người thổ dân Hạ Châu, Cao Bá Quát có nhiều nhận xét chi tiết hơn có thể vì Ông có cơ hội quan sát họ gần và nhiều hơn như trong bài Man phụ hành (Bài ca về cô gái Hạ Châu)

Trường sạn thôn đầu man tiểu cô (Trên lối đi bắc cây gỗ ở đầu xóm có cô gái nhỏ)
Lũ trư như diện tất như phu (Mặt như lợn nái, da (đen) như sơn)
Bản kiều du biến mộ quy khứ (Dạo chơi khắp các cầu ván, chiều quay về)
Tiếu hoán tân nhân tán cố phu (Cười to gọi bạn mới về giúp chồng cũ)

Thật là khác biệt với mẫu hình người con gái Việt Nam theo quy ước Khổng giáo!  Về dung, cô gái Mã Lai hay Nam Dương có nhan sắc kỳ lạ, mặt mập, nước da đen đủi.  Về công, thay vì ở trong nhà thêu thùa may vá, cô gái Hạ Châu đi chơi khắp nơi, đến chiều tối mới quay về nhà.  Về ngôn, cô nói to cười lớn chứ không nhỏ nhẹ ý nhị.

Trong bài Dương phụ hành (Bài ca về người đàn bà phương tây), như một họa sĩ thần kỳ, Cao Bá Quát đã tóm gọn sự khác biệt giữa phụ nữ Âu tây và Á đông trong vài nét chấm phá thật sinh động.

Thứ nhất, về thái độ đối với người chung quanh, Ông viết:

Độc bặng lang kiên tọa thanh nguyệt (Tựa vai chồng dưới ánh trăng sáng)
Khước vọng Nam thuyền đăng hỏa minh (Nhin sang thuyền Nam thấy lửa sáng)

Bối cảnh là hai thuyền đậu gần nhau trong một tối sáng trăng, thuyền Cao Bá Quát thắp đèn le lói.  Nếu là người vợ Việt Nam thì đã e thẹn, khép nép trốn trong phòng, hay cùng lắm là len lén nhìn sang.  Đằng này, người vợ tây lại dựa vào vai chồng nhìn thẳng sang thuyền Việt, quan sát người lạ. 

Thứ hai, về trang phục và thức uống, Ông tả Tây dương thiếu phụ y như tuyết (Người đàn bà phương tây áo trắng phau)
….
Nhất uyển đề hồ thư lãn trì (Tay cầm chén sữa một cách uể oải)
Thật là đối nghịch với đàn bà Việt Nam.  Phụ nữ Việt Nam thời đó chỉ mặc đồ trắng trong tang lễ, nhất quyết không thể mặc quần áo trắng khi xuất hiện với chồng.  Về thức ăn, phụ nữ Việt Nam chỉ uống nước hay nước trà, chưa biết uống sữa.

Về đối xử vợ chồng, Ông tả tiếp: 

Bả duệ nam nam hướng lang thuyết (Níu áo chồng nói chuyện ríu rít)

Dạ hàn vô ná hải phong xuy (Đêm lạnh không chịu nổi gió biển)
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi (Nghiêng mình lại đòi chồng nâng dậy)

Theo phong tục Việt Nam thời đó, vợ trong nhà phải cung kính, phục tùng chồng, ra ngoài phải giữ ý tứ đứng xa chồng.  Như vậy hành xử của thiếu phụ phương tây này (như tựa vai, kéo áo, nói chuyện rì rầm, đòi nâng dậy) dưới sự chứng kiến của đám người Nam đã phá bỏ lễ nghi chồng vợ theo truyền thống Á đông. 

Không rõ Cao Bá Quát nghĩ gì về sự ‘phá lễ’ nói trên nhưng Ông kết thúc bài thơ như sau:

Khởi thức nam nhân hữu biệt ly (Đâu biết người nam đang chịu cảnh biệt ly)

Nhà thơ họ Cao đã không phê phán phụ nữ phương tây theo quan điểm Khổng nho.  Phải chăng Ông cũng khát khao, chờ đợi được vợ mình nũng nịu, quấn quýt như thiếu phụ người Âu? 

Về tư duy kinh tế, Cao Bá Quát dễ dàng cảm nhận sự năng động của người phương tây.  Quan sát thuyền bè của các nước Âu tây đi lại trong vùng Hạ Châu, Ông nhận xét như sau:

Tây tra phát hán lộ (Chiếc bè phương tây phát hiện ra đường sông)
Khai nguyên đãng nan thu (Mở nguồn lợi khó thu lại hết)

Hiệp thử vạn lí du (Coi nhẹ cuộc đi xa vạn dặm)

Điều này trái ngược với tư duy văn hóa và kinh tế của người Việt Nam. Người Việt thích gắn bó với làng xóm, xem thường buôn bán (ức thương) và không thích phải ‘tha hương cầu thực’.  Trong khi đó, người Âu tây không ngại di chuyển, sẵn sàng phiêu lưu tìm đất mới, chiếm hữu tài nguyên hay buôn bán kiếm lợi.

Về đời sống tâm linh, Cao Bá Quát đã gặp gỡ những tín đổ Hồi giáo trong chuyến công du Hạ Châu.  Ông ghi lại hình ảnh những người linh da đen cầu nguyện như sau:

Ngốc phát ban cân tam ngũ nhi (Năm ba gã trai trẻ đầu trọc đội khăn rằn)
Tụ đầu tán giảng mạn thanh trì (Chụm đầu rầm rì chậm rãi tụng lời kinh giảng)

Phương pháp tụng kinh Hồi giáo này rất xa lạ với người Việt vào lúc đó và đã gây ấn tượng không ít cho Cao Bá Quát.

Cuối cùng, trong bối cảnh Hạ Châu là thuộc địa của Anh quốc và Hà Lan, Cao Bá Quát không thể làm ngơ trước sự bất bình đẳng giữa người da trắng và người da mầu.  Trong bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Hạ Châu tạp thi, Ông kết luận

Thiết ly vô tỏa quy xa nhập (Rào sắt không khóa, xe trở về cứ đi vào)
Cá cá ô nhân ngự bạch nhân (Đánh xe cho người da trắng toàn người da đen)

Trong khung cảnh trù phú của Tân Gia Ba, Cao Bá Quát đã chứng kiến cảnh người thổ dân hầu hạ (giữ cổng, đánh xe, vv) cho các chủ nhân phương tây.  Khi làm hai câu thơ trên, rất có thể Cao Bá Quát cũng đã liên tưởng đến cảnh tương tự khi người Âu tây xâm nhập Việt Nam.

5(iii) Văn minh kỹ thuật Âu tây

caobaquat02

Tàu chạy bằng hơi nước của Anh trong chiến tranh Nha phiến

Như thảo luận bên trên, thơ văn Cao Bá Quát đã mô tả khá phong phú và chi tiết những cảm nhận của Ông về sự khác biệt giữa ngoại hình, tư duy và hành xử của người Âu.  Nhưng cái thật sự làm Ông kinh ngạc và ngưỡng mộ là các phát minh và thành quả của văn minh kỹ thuật trời Âu.

Theo Nguyễn Thị Tính (2015: 104), Cao Bá Quát đã ngạc nhiên, sửng sốt khi được thương gia Hoàng Liên Phương cho xem thử chiếc kính viễn vọng.  Qua kinh nghiện này, Cao Bá Quát thông hiểu người tây đã biến huyền thoại ‘thiên lý nhãn’ thành hiện thực.

Không phải chỉ có những sản phẩm riêng lẻ, mà kiến trúc Âu tây cũng gây ấn tượng mạnh cho Cao Bá Quát.  Trong Hạ Châu tạp thi,  Ông mở đầu như sau:

Lâu các trùng trùng giáp thủy vân (Ven bờ nước lầu phố trập trùng)
Tùng âm lương xứ dị hoa xuân (Hoa xuân lạ khoe sắc dưới bóng thông)

Lúc đó Tân Gia Ba đang là nhượng địa của người Anh.  Chúng ta phỏng đoán có những khu dành cho các ông chủ người da trắng, nhà cửa, vườn tược xây cất theo lối Âu tây.  Các lối kiến trúc khác lạ này đã gây chú ý nơi Cao Bá Quát và được Ông thi hóa như trên.

Nhưng ấn tượng mạnh mẽ nhất của văn minh kỹ thuật Âu tây đối với Cao Bá Quát là tàu hơi nước mà Ông đã mô tả kỹ lưỡng trong Hồng mao hỏa thuyền ca.  Đó không phải là chuyện đáng ngạc nhiên.  Sự khác biệt giữa thuyền buồm và tàu hơi nước có thể xem như tiêu biểu nhất cho sự tụt hậu của văn minh kỹ thuật Á đông so với thế giới Âu tây lúc đó.  Hai năm trước chuyến công vụ Hạ Châu, các chiếc thuyền lỗi thời của nhà Thanh đã bị đại bại trước các chiến hạm hơi nước của người Anh trong chiến tranh Nha phiến.  Sau nhiều ngày tháng lênh đênh trên mặt biển bằng chiếc thuyền buồm, Cao Bá Quát ắt hẳn cảm nhận sâu sắc việc này hơn bao giờ hết.

Các từ bãi Lặc tử và bến Bạch Thạch trong bài thơ cho thấy Cao bá Quát có thể làm bài này khi ở giữa Tân Gia Ba và Mã Lai, có lẽ khi gần cặp bến Tân Gia Ba.  Từ trên boong thuyền Phấn Bằng ông đã thấy tàu hơi nước qua luồng khói bốc lên từ xa:

Cao yên quán thanh không (Khói bốc tuốt trời xanh)  
Tả tác bách xích đôi (Đùn lên trăm thước liền) 
Yêu kiều thuỳ thiên long (Ngoằn ngoèo như rồng lượn)
Cương phong xuy bất khai (Gió mạnh thổi vẫn đứng)

Thật là một quang cảnh nhân tạo đầy ấn tượng! Khi chiếc tàu chạy veo veo đến gần, Cao Bá Quát miêu tả con tàu kinh dị này khá chi tiết:

Nguy tường ngật lập ngũ lạng tĩnh (Cột tàu cao chót vót, con quay gió đứng yên) 
Tu đồng trung trì phún tác yên thôi ngôi (Ống khói ở giữa phun khói lên cao ngất)
Hạ hữu song luân triển chuyển đạp cấp lãng (Dưới có hai bánh xe xoay chuyển đạp ngọn sóng)  
Luân phiên lãng phá ân kỳ sinh nộ lôi (Guồng quay, sóng đánh tung tóe ầm ầm như sấm rền)

Không phải chỉ có cấu trúc kỳ lạ, chiếc tàu hơi nước có tốc độ và chuyển hướng thật kinh hồn mà không thấy người chèo lái: 

Hữu thì hoành hành đảo tẩu tật bôn mã (Có lúc đi ngang, chạy ngược, nhanh như ngựa phi)
Vô phàm, vô lỗ, vô nhân thôi (Không buồm, không chèo, không người đẩy)

Không kém phần kinh ngạc cho Cao Bá Quát là sự dễ dàng trong việc điều khiển con tàu này:

Long Nha, Xích Khảm bách lý ngoại (Long Nha, Xích Khảm ngoài trăm dặm) 26 
Đàn chỉ tảo khước kinh lan hồi (Chỉ búng ngón tay, vượt qua những làn sóng kinh người)
Hoán nhi ủng tỵ đàm tiếu lai (Họ gọi trẻ đến, vểnh mũi cười nói)
Tuyết khố nga cân nhiễu tường lập (Quần trắng mũ cao, đứng vây quanh cột buồm)

Làm chủ một con tàu thần kỳ như thế, mà không vất vả nhọc nhằn, vẫn ung dung cười nói, sang trọng trong đồng phục.  Thành tựu khoa học kỹ thuật của Âu tây thật đáng nể! 

Kết quả của tinh thần phiên lưu mạo hiểm, quan điểm trọng thương và các thành tựu khoa học kỹ thuật là đời sống vật chất trù phú, sung túc.  Đây là một điểm cực kỳ quan trọng trong tư duy của Cao Bá Quát vì Ông vốn sinh ra và lớn lên trong một gia đình không dư dả.  Khi ra làm quan, lương bổng ít ỏi, Ông lại bị bệnh tiểu đường, tốn kém thuốc thang, cho nên vợ con phải buộc lòng đi khắp chợ quê tìm kế mưu sinh (Thái Trọng Lai, 2014).  Trong thơ văn của Ông, ta không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện nhan nhản giới lao động, người đói nghèo ví dụ như Cái tử (Người ăn mày), Đạo phùng ngã phu (Đi đường gặp người đói), Hiếu lũng quán phu (Thợ tát nước trên đồng cao buổi sáng), Mộ kiều quy nữ (Cô gái về qua cầu chiều), Phụ tương tử (Người vác hòm), Quan chẩn (Quan phát chẩn), vv.

Trái ngược với xã hội lao động nhọc nhằn Việt Nam, Cao Bá Quát quan sát đời sống giàu sang của người tây ở Hạ Châu với nhà lầu nguy nga, xe ngựa rập rình (Hạ Châu tạp thi).  Thật là một thế giới sầm uất, sung túc, người người qua lại trên xe đông vui, náo nhiệt và cuộc sống ung dung, nhàn hạ.  Ông đã ghi lại kinh nghiệm đó như sau:

Song song phù lạp hạ triêu tinh (Hai thuyền song song cập bến vào một buổi sáng đẹp trời)
Phiến phiến hồng kì chiếu thủy thanh (Từng lá cờ đỏ chiếu trên nền nước trong)
Dương nữ như hoa thướng xa khứ (Cô gái Tây đẹp như hoa lên xe đi)
Kỉ hành huề thủ sấn du minh (Mấy hàng người dắt tay nhau vui chơi trong sáng mai)

5(iv) Sự cảm thông với người Trung Hoa

Cao Bá Quát thấm nhuần Hán văn (chữ viết, thi phú, sử ký, vv) ngay khi còn nhỏ.  Đến khi xuất ngoại, vì không biết tiếng nói nước ngoài, Ông chỉ có thể bút đàm bằng chữ Hán với các nhân vật gặp gỡ trong chuyến công vụ Hạ Châu.  Người bạn tâm đầu ý hợp nhất với

0