31/03/2021, 15:28

Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên gặp nạn" số 6 - 10 Bài văn phân tích đoạn trích "Lục Vân Tiên gặp nạn" của Nguyễn Đình Chiểu hay nhất

Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện, kể về Vân Tiên sau khi nghe tin mẹ mất đã bỏ khoa thi, cùng tiểu đồng vội vã trở lại quê nhà để chịu tang. Đang bơ vơ nơi đất khách thì hai người lại gặp Trịnh Hâm ở phần đầu tác phẩm, tác giả kể rằng khi Trịnh Hậm và Bùi Kiệm đến trước ...

Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện, kể về Vân Tiên sau khi nghe tin mẹ mất đã bỏ khoa thi, cùng tiểu đồng vội vã trở lại quê nhà để chịu tang. Đang bơ vơ nơi đất khách thì hai người lại gặp Trịnh Hâm ở phần đầu tác phẩm, tác giả kể rằng khi Trịnh Hậm và Bùi Kiệm đến trước trường thi, gặp Vân Tiên và Tử Trực liền kết bạn và cùng nhau vào một quán rượu xướng hoạ thơ phú. Thấy Vân Tiên tài cao, xuất khẩu thành thơ, Trịnh Hâm lo lắng không yên:


Kiệm, Hâm là đứa so đo,

Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.

Khoa này Tiên ắt đầu công,

Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.


Lòng ganh ghét, đố kị đó đã biến Trịnh Hầm thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm, ngay cả khi Vân Tiên không còn khả năng đe dọa bước đường công đanh của hắn. Nói như nhà nghiên cứu Hoài Thanh: Mối oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ.


Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn thể hiện sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn; đồng thời thể hiện thiện cảm của tác giả đối với những người nghèo mà giàu lòng nhân ái.


Bố cục đoạn trích chia làm hai phần: Tám câu thơ đầu là hành động tội ác của Trịnh Hâm. Phần sau miêu tả việc làm nhân đức, cuộc sống trong sạch và nhân cách cao cả của ông Ngư.


Ngoài Lục Vân Tiên là nhân vật chính còn có hai nhân vật phụ là Trịnh Hâm, tiêu biểu cho kẻ ác và ông Ngư tiêu biểu cho người thiện: Cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không mạnh mẽ như ở đoạn Lục Vân Tiên đánh cướp mà nhẹ nhàng, thấm thía, đẹp như trong truyện cổ, vẻ đẹp của cái thiện toả ra từ nhân vật ông Ngư, với cuộc sống an bần lạc đạo: Thuyền nan một chiếc ở đời…


Lúc này, dường như thầy trò Vân Tiên lâm vào bước đường cùng nơi đất khách. Tiền thì hết, mắt đã mù. Gặp lại Trịnh Hâm, Vân Tiên mừng vì tưởng được giúp đỡ, nhất là khi nghe hắn hứa sẽ đưa về tận nhà. Không ngờ Trịnh Hâm lừa Tiểu Đồng vào rừng, trói vào gốc cây. Sau đó, hắn nói dối Vân Tiên là Tiểu Đồng đã bị cọp vồ. Vân Tiên chi còn trơ trọi một mình.. Lúc này, kẻ tiểu nhân mới thực hiện hành vi tàn độc:


Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.

Trịnh Hâm khi ấy ra tay,

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,

Cho người thức dặt lấy Lời phui pha.

Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.


Vì sao Trịnh Hâm cố tình hãm hại Vân Tiên? Nguyên nhần do hắn đố kị, ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên và lo cho con đường tiến thân của mình bị người khác cản lối. Khi mối lo đó không còn vì Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn tìm cách hãm hại, chứng tỏ sự ác độc dường như đã thấm vào máu thịt hắn, đã trở thành bản chất cua hắn. Cái ác không có giới hạn, kẻ ác không bao giờ chùn tay.


Hành động của Trịnh Hâm vừa bất nhân, vừa bất nghĩa. Độc ác, bất nhân vì hắn đang tâm hâm hại một con người tội nghiệp trong cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có khả năng tự vệ. Bất nghĩa vì Vân Tiên từng coi hắn là bạn, từng trà rượu, xướng họa thơ phú cùng nhau, Vân Tiên cũng đã có lời nhờ cậy: Tiên rằng: tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen nầy và hắn cũng từng hứa hẹn: Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.


Hành động độc ác của Trịnh Hâm được hắn mưu tính, sắp xếp khá kĩ lưỡng. Thời gian gây tội ác là Đêm khuya lặng lẽ như tờ, khi mọi người đã ngủ yên. Giữa trời nước mênh mông mịt mờ sương bay, Vân Tiên bị xô ngay xuống vời, hoàn toàn bất ngờ, không kịp kêu lên một tiếng. Đến lúc biết là không ai có thể cứu được Vân Tiên thì Trịnh Hâm mới giả tiếng kêu trời, rồi kể lể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm gian ngoan, xảo quyệt đã phủi sạch tay mà không mảy may cắn rứt lương tâm.


Chỉ qua tám dòng thơ, tác giả đã miêu tả tội ác tày trời và bóc trần tâm địa của một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Đoạn thơ giống như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, tình huống, diễn biến và được kể bằng ngôn ngừ chân thực, tự nhiên, gây xúc động mạnh. Người đọc, người nghe càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì càng căm ghét gã Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu!


Trái với hình ảnh Trịnh Hâm tiêu biểu cho cái ác là hình ảnh ông Ngư và gia đình ông tiêu biểu cho cái thiện. Cả gia đình vất vả trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé nhưng nhân cách và quan niệm sống của họ mới rộng lớn, cao cả làm sao! Đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen độc ác của Trịnh Hâm là tấm lòng nhân ái, hào hiệp của ông Ngư.


Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông sẵn lòng giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống đói nghèo hẩm hiu tương rau nhưng đầm ấm tình người. Ông cứu người mà chẳng hề tính toán: Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Cái Thiện được biểu hiện trọn vẹn và ngời sáng qua việc làm nhân đức và tính cách cao cả của ông Ngư. Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn vớt ngay lên bờ rồi:


Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.


Sự việc được kế lại ngắn gọn nhưng thể hiện được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với chàng trai họ Lục.Cả gia đình ông lão mỗi người một việc, lo cứu sống người. Không cần biết nạn nhân đó là ái, cứ thấy bị nạn là cứu, thấy việc nghĩa là làm. Đó là bản chất cao quý của những con người lao động nghèo khó, lương thiện. Khi Lục Vân Tiên tỉnh dậy, xúc động kể lại sự tình và bày tỏ lòng biết ơn:


Nay đà trôi nổi đến đây,

Không chi báo đáp mình nầy tra trơ.

thì Ngư ông đáp luôn:

Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.


Lời lẽ của ông Ngư bộc trực, khảng khái, đúng là cung cách và giọng điệu của người dân Nam Bộ, nghe thấm thía vô cùng. Ông không hề có ý nghĩ làm ơn sẽ được đền đáp bằng tiền bạc, của cải. Ông chỉ dốc lòng nhân nghĩa, cứu người gặp nạn. Hành động và lời nói của ông Ngư thật hào hiệp, vô tư.


Nghe Vân Tiên kể về tình cảm éo le, đau khổ của chàng, ông lão thương đứt ruột, hành động cứu người của ông tuy lặng lẽ, âm thầm nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp Lục Vân Tiên thoát khỏi bàn tay tàn độc của Trịnh Hâm. Trái tim nhân hậu của ông Ngư thật đáng kính trọng biết bao!


Cái thiện còn được biểu hiển qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư. Quan điểm của ông Ngư về cuộc sống của mình cũng chính là những ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống phóng khoáng giữa trời cao đất rộng, bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng… Con người tự do, tự tại nên tâm hồn vui vẻ, nhân hậu, khác xa với những kẻ sống trong những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa…


Trên chiếc thuyền nan bé nhỏ, mong manh ấy, ông Ngư đã sống cuộc sống thật ý nghĩa. Ngỡ như không phải ông nói, mà là đang ngân nga cất tiếng hát ca ngợi lối sống thanh cao của những bậc chính nhân quân tử trọng nghĩa khinh tài. Trong âm thanh, nhịp điệu của lời thơ nghe như có tiếng phách, tiếng đàn thong thả đệm theo lời ông già Nam Bộ hát Vân Tiên. Hát rằng:


Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.

Rày doi mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng…


Đây là một trong những đoạn thơ hay của tác phẩm. Ý thơ phóng khoáng, sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp và gợi cảm. Vũ trụ bao la, thiên nhiên tuyệt mĩ với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, mặt đất, gió trăng… Con người hòa nhập trong cảnh đẹp ấy không chút cách biệt: hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió… Tác giả sử đụng rất nhiều từ miêu tả trạng thái tâm hồn thanh thản của ông Ngư; vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say… Tưởng như chính nhà thơ đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình.


Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước đề rửa ruột sạch trơn, tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao. Nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh…, ông Ngư đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Gia đình, nhà cửa, cả thân xác lẫn tâm hồn như đã hoà làm một với biển trời, sông nước. Cặp từ hứng gió, chơi trăng phác hoạ hình ảnh con người lao động nhưng lại có tâm hồn bay bổng, mơ mộng của một thi nhân. Mơ mộng nhưng cũng rất chủ động, ung dung:


Một mình thong thả làm ăn

Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.


Câu thờ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những mái chèo khỏa nước lúc nhặt lúc khoan, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ. Cuộc sống tự đo của ông Ngư hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao!


Trò chuyện với Lục Vân Tiên, ba lần ông Ngư nói đến chữ vui: vui vầy, vui thầm rồi vui say. Lúc nào cũng vui, càng lúc càng vui. Đi đây đi đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè gặp bạn thì vui vầy. Giừa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn vui thầm. Ý thức sâu sắc về lối sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này là động lực đế ông vui say, nghĩa là lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, đắm say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ông Ngư càng bay bổng. Men rượu đă ngấm, hồn thơ cất cánh, ông Ngư đã hoá thành triết gia, thành nghệ sĩ:


Kính luân đã sẵn trong tay

Thung dung dưới thế vui say trong trời

Thuyền non một chiếc ở đời, .

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.


Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa sông dài biển rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ông Ngư gắn liền với chiếc thuyền nan ấy. Hình ảnh chiếc thuyền nan cũng như hình tượng nhân vật ông Ngư được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nên từ sự thăng hoa của cảm hứng lãng mạn.


Dường như nhà thơ đả nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca, vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống nhân nghĩa, cách sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, hoà hợp với đất trời. Cuối đoạn trích, âm điệu thơ càng dạt dào, sóng sánh như ánh trăng trải trên mặt nước, như mặt nước được mái chèo nhẹ nhàng khua động lung linh.


Trong văn chương thời trung đại, hình tượng Ngư – Tiều dường như đã được dùng để ám chỉ những ẩn sĩ muốn trốn tránh cuộc đời đen bạc, nhiễu nhương, tìm về với thiên nhiên trong sáng: Ôm tài giấu tiếng làm Tiều, làm Ngư (Ngư-Tiều y thuật vấn đáp).


Nguyền Đình Chiểu rất quen thuộc với bút pháp ước lệ cổ điển, cho nên qua những lời nói của ông Ngư, ông Tiều, ta thấy bóng dáng của họ giống ẩn sĩ hơn là người lao động bình thường (Kinh luân đã sẵn trong tay). Tuy nhiên, cảm xúc của người đọc, người nghe đối với những nhân vật này không hoàn toàn là thế. Ông Ngư trong đoạn thơ này và ông Tiều trong đoạn thơ sau cùng có một cách nói giống nhau về cuộc sống của mình:


Tiều rằng: vốn lão tình không,

Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.

Tấm lòng chẳng muốn của ai

,Lánh nơi danh lợi chông gai mặc lòng.

Kìa non nọ nước thong dong,

Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.

Công hầu phú quý mặc ai,

Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.


Họ hiện diện giữa đời sống trong sạch, thanh thản, khinh ghét sự bạc đen, tráo trở, sự bạo ngược hung tàn và bao giờ cũng có mặt đúng lúc để cứu giúp người hoạn nạn với tấm lòng trọng nghĩa khinh tài: Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: Với Đồ Chiểu, những người lao động ấy cũng là những người có tài, ghét đời ô trọc mai danh ẩn tích.


Đọc truyện thơ Lục Vân Tiên, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta còn gặp những ông Quán, ông Tiều, ông Ngư – những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất tốt đẹp của người lao động và đạo lí truyền thống dân tộc. Ông Ngư – nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng chính là một mảnh tâm hồn cửa nhà của Nguyền Đình Chiều?


Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn là kiểu kết cấu thông thường ở các truyện cổ dân gian. Ở đây, người tốt thường gặp hoạn nạn, bị hãm hại nhưng lại luôn được cứu giúp có khi là con người (ông Ngư), có khi là thần linh (giao long). Kiểu kết câu này còn được lặp lại ở một sô tình tiết khác, nhưng truyện vẫn không bị coi là nhàm chán. Bởi nó thế hiện niềm tin và ước mong của những con người bị áp bức, khó bề chống đỡ trong xã hội đầy rẫy áp bức, bất công. Niềm tin ấy xuất phát từ triết lí nhân sinh đã thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bao đời nay: Ở hiền gặp Lành.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Hồng Quyên

225 chủ đề

2179 bài viết

Cùng chủ đề
Có thể bạn quan tâm
0