31/03/2021, 14:52

Bài soạn "Người lái đò sông Đà" số 3 - 6 Bài soạn "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân lớp 12 hay nhất

Đọc - hiểu Bài 1 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1 Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà. Trả lời: - Sông Đà như có tính cách của một con người, tính cách ấy mâu thuẫn với nhau: hung bạo và trữ tình. - ...

Đọc - hiểu

Bài 1 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.

Trả lời:

- Sông Đà như có tính cách của một con người, tính cách ấy mâu thuẫn với nhau: hung bạo và trữ tình.

- Người lái đò sông Đà vừa là một anh hùng trên sóng nước vừa là một người nghệ sĩ tài hoa, thông minh tiêu biểu cho vẻ đẹp người lao động vùng núi Tây Bắc.

- Tác giả đã vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa khác nhau để miêu tả về sông Đà và người lái đò sông Đà: hội họa, điện ảnh, âm nhạc,... chúng được ông vận dụng một cách khéo léo, tài hoa cùng với kiến thức của những ngành văn hóa như: lịch sử, địa lý,... Chính vì vậy mà trang văn của Nguyễn Tuân khi đằm thắm giàu chất thơ, khi sinh động như một thước phim quay cận cảnh, khi tràn đầy màu sắc như một bức tranh độc đáo.

- Vốn kiến thức sâu rộng của tác giả đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến người đọc, khiến họ luôn say đắm, đắm mình khám phá những trang văn của ông.


Bài 2 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo.

Trả lời:

- Hướng chảy của dòng sông gợi cho ta sự độc đáo, bất thường: Chúng thuỷ giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu (Các dòng sông đều chảy về đông - Chỉ có sông Đà một mình chảy về phương Bắc).

- Bờ sông Đà (thượng nguồn) là cảnh tượng rất hiểm trở: “đá dựng vách thành", chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu...

- Thác dày dặc, trong đó vô cùng độc dữ, nham hiểm là 73 cái thác ở phía thượng nguồn. Sự độc dữ của chúng hiện hình ngay qua tên gọi như: thác ổ gà, bãi Thằng Rồ, thác Từu Ông Từu Bà...

- Ngay cát sông Đà cũng là cát dữ: nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết hà đục thủng đáy thuyền gỗ...

- Gió trên sông Đà lại càng đáng sợ: gió cuồn cuộn từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt (nợ không có cũng đòi), bằng cách lật ngửa bụng thuyền ra.

- Đáng sợ hơn đó là các hút nước trên mặt sông: nước ở đây ặc ặc lên như rót dầu sôi vào, hễ thuyền bè đi qua vô ý là nó lôi tuột xuống đánh tan xác ở đáy sông...

- Âm thanh tiếng nước sông Đà cũng thật ghê gớm: như là oán trách, như van xin, như khiêu khích, rồi rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa...

- Song khủng khiếp nhất ở Đà giang là trùng vi trạch thuỷ trận: đó là bao đá nổi, đá chìm phối hợp cùng các luồng nước dàn bày thạch trận, ập thành ba phòng tuyến với cả tập đoàn cửa tử đầy những tướng đá, quân nước hung dữ...

=> Tác giả vận dụng tài tình các biện pháp so sánh, nhân hóa kết hợp với ngôn ngữ miêu tả đầy tính tạo hình đã làm nổi bật lên sự hung bạo của dòng sông Đà. Sức mạnh hoang dại, vẻ đẹp kì vĩ và sự hung dữ của con sông qua góc nhìn và sự miêu tả tinh tế của Nguyễn Tuân.


Bài 3 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Cách viết của nhà văn đã thay đổi thế nào khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình.

Trả lời:

- Dáng vẻ dòng sông đầy thơ mộng: Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc tung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân... Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải. Sông Đà mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ.

- Sắc màu nước biển đổi kì ảo theo từng mùa: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, mùa thu từ từ chín đỏ..

- Sông Đà mang vẻ đẹp gợi cảm:

+ Dòng sông Đà trở về dòng chảy êm đềm, miên man, đầy quyến rũ.

+ Sông Đà được nhìn như một cố nhân, thể hiện mối tri âm, tri kỉ của tác giả với con sông.

+ Bờ sông hoang dại, bình lặng như thời tiền sử – hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa – Dòng sông lặng lờ trôi.

=> Sông Đà rất mực trữ tình hiền hoà. Sự tài hoa của ông đã mang đến những áng văn với bức tranh trữ tình đủ để lòng người say đắm, ngất ngây.


Bài 4 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bức mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.

Trả lời:

Bài tuỳ bút khắc họa hình ảnh người lái đò sông Đà:

- Vẻ đẹp khoẻ khoắn, cường tráng: dẫu đã bảy mươi tuổi nhưng ông lái đò vẫn có “thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun... Cánh tay vẫn là của một chàng trai trẻ tráng".

- Sự lão luyện, tinh thông trong nghề nghiệp: ông lái đò hết sức am tường con sông Đà, có thể “nhớ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà hung bạo ấy, ông đã xuôi ngược hơn cả trăm lần...

- Vẻ đẹp nổi bật của người lái đò là vẻ đẹp của Trí - Dũng - Tài hoa: người lái đò hiện lên như vị chỉ huy dạn dày kinh nghiệm, nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, linh hoạt thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến. Ông lái đò điều khiển con thuyền bằng bản lĩnh già dặn, lòng dũng cảm và tài hoa của một nghệ sĩ, tay lái ra hoa. Điều đó thể hiện qua việc ông chỉ huy con thuyền vượt qua “trùng vi thạch trận" dữ dằn, nham hiểm.

- Ý nghĩa của hình tượng ông lái đò:

+ Ca ngợi những người lao động bình thường mà anh hùng, tài năng...

+ Bài ca về sự chiến thắng của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.

+ Bày tỏ quan niệm về giá trị của con người - dù làm gì nhưng tinh thông trong nghề nghiệp của mình thì cũng thật vinh quang: theo nhà văn cái bầm tụ trên ngực người lái đò do đầu sào in dấu là một thứ huân chương lao động siêu hạng.


Bài 5 trang 193 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

Trả lời:

Một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân:

- Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì,... với đàn trâu da cháy bùng bùng.

- Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền.

- Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tính, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc... nương xuân.

- Bờ sông hoang dại... cổ tích tuổi xưa.


Luyện tập

Bài 2 trang 193 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Phân tích và phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn khiến anh (chị) thấy yêu thích, say mê nhất trong thiên tùy bút.

Gợi ý:

Anh (chị) tự chọn một đoạn mà mình thích trong thiên tùy bút để phân tích và nêu cảm nghĩ. Dưới đây là bài làm mẫu cảm nghĩ về đoạn từ "Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi..." đến "rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ...":


Từ trên cao nhìn xuống sông Đà như một sinh thể xuất hiện trong bức tranh gấm vóc của non sông “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một ánh tóc trữ tình, dầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Sông Đà qua đoạn chợ Bờ đã không còn những thác đá, những hút nước, những trùng vây thạch trận mà là một con sông Đà trữ tình, mềm mại như dáng hình của người thiếu nữ. Với ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, sông Đà được ví như một áng tóc lại được đặt trong một câu văn rất giàu chất thơ khiến cho ta liên tưởng tới dáng hình của người con gái trẻ trung, duyên dáng với sức sống rạo rực, xuân thì trong mây trời, sương khói của Tây Bắc – một hình ảnh tinh tứ, quyến rũ như dáng chảy trôi mềm mại của con sông.


Nhìn ngắm dòng sông Đà ở nhiều thời điểm, thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của con sông để rồi ông nhận ra dòng nước biến đổi theo mùa giống như người thiếu nữ thay áo. Đó là “mùa xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc Bích chứ không xanh màu xanh canh hến như sông Gâm, sông Lô”. Đó là sắc trong trẻo, tươi sáng, lấp lánh đáng quý của Đà giang và dường như ngay trong cách miêu tả về đặc sắc của màu nước ấy còn mang cá tính của cả một con sông, một sinh thể. Mùa thu nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”. Đó là một so sánh đầy lí thú.


Sông Đà trong thời tiết mùa thu lại được hình dung như tâm trạng của con người bất mãn, bực bội; màu sắc lại được ví như da mặt của người bầm đi vì rượu bữa. Ấn tượng đọng lại trong tâm trí người đọc là hình ảnh của một dòng sông màu mỡ, màu đỏ của phù sa phì nhiêu, là sự giàu có của sức sống mà con sông đang trở nặng để vun đắp cho hai bờ, cho quê hương, cho đất nước này. Tác giả cũng khẳng định chưa bao giờ sông Đà có màu đen như thực dân Pháp đã đưa vào bản đồ của mình để thể hiện tình yêu say đắm với con sông xứ sở và cả sự tôn vinh quê hương, đất nước.


Tổng kết
Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

TRAN THI THU TRANG trang

208 chủ đề

2330 bài viết

0