15/01/2018, 16:22

Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?

Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông? Bài làm văn số 6 lớp 12 đề 2 Ngữ văn lớp 12: Viết bài làm văn số 6 lớp 12 ...

Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 2: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?

Ngữ văn lớp 12: Viết bài làm văn số 6 lớp 12 đề 2

VnDoc xin giới thiệu tới bạn đọc tài liệu:  Với nội dung tài liệu đã được VnDoc cập nhật một cách chi tiết sẽ là nguồn thông tin hữu ích dành cho các bạn học sinh tham khảo để học tốt Ngữ văn 12. Mời các bạn học sinh và thầy cô tham khảo.

Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?

Dàn ý Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?

A. Người lái đò Sông Đà

I. Mở bài:

  • Giới thiệu về đề tài sông Hương
  • Giới thiệu Hoàng Phủ Ngọc Tường và bái bút kí
  • Giới thiệu sông Hương – biểu tượng của cố đô
  • Tham khảo mở bài của bài làm đề này trong mục Cảm thụ.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung tác phẩm

- Tác phẩm được sáng tác tại Huế năm 1981

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” rút ra từ tập bút kí cùng tên, là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường, lấy cảm hứng từ dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế để từ đó nhà văn bày tỏ tình yêu đất nước con người.

- Đánh giá nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

+ Có thể nhắc đến sông Xen, dòng sông đẹp nhất của thủ đô Pa ri để dẫn tới lời nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở câu mở đầu đoạn trích: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước….một thành phố duy nhất”.

+ Đánh giá: Nhận xét mang đậm tính chủ quan của nhà văn. Thể hiện nét độc đáo sông Hương, uyên bác, tự hào.

2. Vẻ đẹp tự nhiên của sông Hương

  • Sông Hương ở thượng nguồn.
  • Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế.
  • Sông Hương khi chảy vào lòng thành phố.
  • Sông Hương rời thành phố Huế.

3. Sông Hương nhìn ở góc độ văn hóa thi ca

  • Sông Hương sinh thành toàn bộ nề âm nhạc cổ điển Huế: “Hình như trong khoảnh khắc chùng lại…mái chèo khuya”.
  • Nguyễn du đã lấy cảm hứng từ điệu “Tứ đại cảnh” và thi hào từng bao lần lênh đênh trên quãng sông này: “Nguyễn Du…trăng sầu”
  • Sông Hương là dòng sông thi ca, là cảm, hứng bất tận cho các nhà văn nghệ sĩ.
  • “Dòng sông trắng-lá cây xanh” trong cái nhìn của Tản Đà
  • ”Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát

4. Sông Hương trong cái nhìn của lịch sử dân tộc

- Sông Hương trở thành dòng linh giang của tổ quốc, chứng nhận lịch sử cho bao sự kiện thăng trầm của dân tộc, sông Hương là dòng sống của thời gian ngân vang của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.

+ Trong sách Dư địa lí của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt.

+ Sông Hương sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.

5. Ai đã đặt tên cho dòng sông?

- Kết thúc bài kí bằng một câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

- Chính bài bút kí này đã trả lời cho câu hỏi ấy.

-> Nhà văn bộc lộ cảm xúc và sự ngạc nhiên thú vị vủa mình trước cái duyên thật đẹp giữa Huế và sông Hương. Cũng để tạo ấn tượng trong người đọc.

III. Kết bài

“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tác phẩm văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Với xúc cảm sâu lắng được tổng kết từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, đại lí, văn chương và một văn phong tao nhã, nhà văn đã tái hiện thành công vẻ đẹp con sông Hương - công trình nghệ thuật thiên tạo mà hóa công đã ưu ái ban tặng cho con người và xứ Huế mộng mơ.

B. Người lái đò sông Đà 

1. Giới thiệu khái quát

  • Người lái đò sông Đà in trong tập tùy bút sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân là kết quả của chuyến đi thực tế của ông ở vùng Tây Bắc, thể hiện tấm lòng gắn bó với đất nước quê hương và kính trọng người lao động của tác giả.
  • Hai hình ảnh nổi bật trong bài tùy bút là ông lái đò và dòng sông Đà. Sông Đà được mô tả như một sinh thể có linh hồn, như một nhân vật có tính cách với hai đăc điểm nổi bật: hung bạo (ở thượng nguồn) và trữ tình (ở hạ lưu).
  • Tùy bút Người lái đò sông Đà thể hiện một nét phong cách của Nguyễn Tuân: tính uyên bác với nhiều phát hiện tinh tế độc đáo về núi sông, cây cỏ trên đất nước ta.

2. Phát hiện tinh tế độc đáo thứ nhất: Sông Đà hung bạo

a. Con Sông Đà hung bạo với 73 cái thác hiểm nghèo ở thượng nguồn. Tác gia đã nghiên cứu công phu xem con sông Đà bắt nguồn từ đâu, xa xưa trong lịch sử có những tên gọi gì, có bao nhiêu thác ghềnh. Đoạn sông Đà ở thượng nguồn, lòng hẹp, bờ là những vách đá dựng đứng được mô tả bằng hình ảnh vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu,.. Có khi là những hình ảnh so sánh mới lạ đến bất ngờ: Ngôi trong khoang đò qua quãng ấy... cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nên vừa tắt phụt đèn điện.

b. Sông Đà như đang náo động, gào thét luôn muôn vạn âm thanh: quãng mặt ghềnh Hát Loáng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm,.. Nhà văn đã sử dụng chọn lọc những hình ảnh nhân hóa để làm sống dậy một cách dữ dội hình thù nhừng hòn đá vô tri: một hòn trông nghiêng thì y như là hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến Một hòn khác... thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Những hòn đá ngỗ ngược trên dòng sông gần như phục sẵn, nhất tề nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, đòi ăn chết cái thuyền...

c. Sông Đà như một trùng vi thạch trận với đủ cả cửa sinh cửa tử, với những binh đoàn của đá, của sóng, của xoáy hút, với những boong-ke, pháo đài, với những đòn âm, đòn tỉa đánh vào chỗ hiểm. Thác sông Đà có lúc rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giũa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

3. Phá hiên tinh tế độc đáp: Sông Đà trữ tình

a. Khi bộc lộ tính cách trữ tình, con sông Đà lại là một dòng sông đầy thơ mộng hiền hòa.

  • Dòng sông thơ mộng được mô tả từ trên cao: Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc...
  • Nước sông thay dổi tùy mùa tiết: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ...

b. Con sông hiền hòa, có những quãng ven sông lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng Lặng tờ đến thế mà thôi...

Với mỗi người, mỗi trạng thái, sông Đà khơi gợi sự cảm nhận khác nhau: Có khi như một cố nhân, có khi bờ sông Đà hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đúng là “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.”

c. Nét hiền hòa của con sông làm cho cảnh vật trở nên gợi cảm, làm cho khách trên con đò chợt mơ màng như nghe tiếng con hươu đang thủ thỉ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương (...)” của một chuyến xe lửa đầu tiên, trong tưởng tượng của tác giả.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích hình ảnh thơ mộng, trữ tình qua bài Người lái đò Sông Đà và Ai đặt tên cho dòng sông?

Bài làm 1

1. Người lái đò sông Đà

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, kết quả của chuyến thâm nhập thực tế vùng sông Đà 1958 - 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sông Đà. Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.

Câu chuyện vượt sông Đà đã được nhà văn kể lại bằng tất cả niềm hứng khởi về sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên, với tất cả kịch tính, cao trào để tôn vinh nghệ thuật chinh phục thác đá sông Đà. Con sông Đà dữ với thần sông tướng đá bủa giăng thế trận vây lấy chiếc thuyền đơn độc được nhà văn miêu tả bằng ngôn ngữ phong phú của tiểu thuyết chương hồi như gợi cuộc phá vây của mãnh tướng Triệu Tử Long xông vào trận quân Tào Tháo, bên cạnh đó nhà văn có những dòng mô tả chân dung bằng giọng văn rất hóm hỉnh của riêng mình : “Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này...”. 

Cuộc đối đầu giữa con người trên chiếc thuyền đơn độc với “boongke chìm và pháo đài nổi” trong “cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn” có sức hấp dẫn đặc biệt. Có lẽ nhà văn đã hình dung ra không khí của những hội vật truyền thống khi miêu tả các cuộc đấu sức, đấu trí và đấu sự nhanh nhẹn giữa người và đá nước. Cuộc đấu có miếng, có mưu, cuối cùng phần chiến thắng thuộc về con người, bởi lẽ “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”.

Hình ảnh bình thường của người lao động, vật lộn với sóng nước đã được Nguyễn Tuân nâng lên ngang hàng danh tướng "biết mình biết ta trăm trận trăm thắng". Nhưng điều tác giả tô đậm nét hơn ở ông lái đò chính là chất nghệ sĩ toát lên từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Ngay sau khoảnh khắc chiến thắng sức mạnh của thác đá, sóng dữ, thì "sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình". Đây mới chính là ông lái đò mang đậm nét Nguyễn Tuân.

Con người chiến đấu với sông Đà dữ cũng chỉ là để mưu sinh, "ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác", nên những con người này cũng yêu mến dòng sông đã cho họ những "cá anh vũ, cá dầm xanh", những hầm cá hang cá "túa ra đầy tràn ruộng". Sông Đà dữ thì có "diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một", nhưng khi sông nước thanh bình, vẻ đẹp nên thơ gợi cảm của dòng sông lại hiện về nguyên vẹn.

Nhà văn đã dành những trang viết thấm đẫm chất trữ tình để miêu tả vẻ đẹp dịu dàng của dòng sông mang trong lòng những huyền sử thuở khai thiên lập địa của cha ông. "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân.", "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích...", "mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa"...

Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một "cố nhân". Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của "bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà". Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở Lý Trần Lê, vừa bâng khuâng cảm giác về sự sống nảy lộc đâm chồi: "Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tíchtuổi xưa".

Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà.

Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.

Với Người lái đò sông Đà này, Nguyễn Tuân đã ghi dấu ấn không trộn lẫn của mình ở thể loại tùy bút, bám sát hiện thực, say mê khám phá những nét ấn tượng, những vẻ đẹp tiềm ẩn từ hiện thực. Hơn thế nữa, tác phẩm còn đánh dấu sự vững vàng trong tư tưởng tình cảm của nhà văn, sự nhạy cảm tinh tế của một tâm hồn nghệ sĩ yêu đất nước, yêu con người lao động, yêu và tin vào cách mạng, vào con đường dân tộc đang hướng tới. Tấm lòng ấy, tài năng ấy của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọ

2. Ai đã đặt tên cho dòng sông

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một bút kí đặc sắc, thể hiện phong cách tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông Hương như một biểu tượng của Huế.

Vẻ đẹp dòng sông Hương ở thượng nguồn hóng khoáng và man dại

Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v...Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế

Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như 'một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn'. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: 'mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn', nhưng cũng có lúc lại 'dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một 'cô gái Digan, phóng khoáng và man dại', bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.Nghệ thuật: so sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân hóa.

Sông Hương khi về đến ngoại vi thành phố

'Sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa ,xứ sở', dòng sông duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế.Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn hóa, lịc sử, tác giả miêu tả dòng sông thật sinh động vói cảm nhận mang nhiều khác biệt.

Sông Hương như 'người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng công chúa ngủ trong rừng). Dòng sông hiện lên với 'khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm'. Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi giữa những bãi bờ xanh biếc, nhiều màu sắc trầm mặc, triết lí.

Những lăng tẩm với 'giấc ngủ nghìn năm của vua chúa đựoc phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm lan tỏa khắp cả một vùng thượng lưu'.

Với những quan sát tinh tế, ngôn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ, sông Hương trong dư vang Trường Sơn, dòng sông mềm như tấm lụa'. 'Những dãy đồi sừng sững như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi: Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo', những ngọn đồi đã tạo ra nững mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím' rất lạ và đặc trưng như người Huề từng nhận xét.

Sự thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, một cô gái Digan, man dại và phóng khoáng đã trở nên dịu dàng, e lệ, như 'người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức', 'người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở'.

Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiến gà từ xóm làng trung du bát ngát,...

Bài làm 2

Quê hương Việt Nam nổi bật lên những dòng sông xanh mát, chảy xuống tâm hồn con người những hình ảnh sinh động hấp dẫn nhẹ nhàng, nó mang một vẻ đẹp thanh tao thơ mộng, qua hai bài thơ Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông chúng ta có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đẹp lung linh, mơ mộng đến tâm hồn của mỗi con người.

Hình ảnh dòng sông Việt Nam được hai tác giả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả thật chi tiết và sinh động trong hai tác phẩm, ở đây điểm chung mà hai tác giả này thể hiện đó là đều miêu tả vẻ đẹp của dòng sông thơ mộng, ở đó con người được sống và làm mát tâm hồn bởi vẻ đẹp say đắm lòng người. Vẻ đẹp của dòng sông quê hương được nhìn từ nhiều góc độ, đó là cách quan sát mà hai nhà văn đã sử dụng để nói về vẻ đẹp của dòng sông quê hương.

Đối với tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng sông hiện lên với những vẻ đẹp nhẹ nhàng, tình tứ của người con gái Việt Nam, sông Hương mang vẻ đẹp mãnh liệt như bản trường ca, Rừng già, khi bí ẩn, khi lại dịu dàng đằm thắm. Nó nhẹ nhàng, bí ẩn, đôi khi đem lại cho người nhìn cảm giác bang quơ, khó hiểu, ở đây tác giả đã nhìn sông Hương qua cách thức thể hiện từng câu chữ, hình ảnh trong tác phẩm.

Vẻ đẹp của dòng sông Hương không chỉ để lại cho người đọc cảm thấy đây là một dòng sông mang vẻ đẹp hoang dại, mang đậm nét tự nhiên, sông Hương còn giống như cô gái Di gan, phóng khoáng và man dại, sự so sánh gợi ra nhiều liên tưởng về dòng sông, vẻ đẹp đó không đâu có thể sánh bằng. 

Sông Hương như một bà mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở, ở đây hình ảnh dòng sông Hương như suốt mát, như bà mẹ làm mát lên tâm hồn của những người con trong vùng xứ sở, ở đó dòng sông nhẹ nhàng, chảy xiết trong tâm hồn của những người thi sĩ. Chỉ với những cách miêu tả, so sánh đầy ấn tượng, chúng ta cũng có thể phần nào liên tưởng đến vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam, nó thật phong phú, mang nhiều màu sắc tươi tắn. Trong những vẻ đẹp đó có lẽ dòng sông Hương còn được so sánh với vẻ đẹp của những cô gái hoang dại, nằm mơ màng. Dòng sông hương không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhẹ nhàng, mà đây còn là vẻ đẹp của sự cố kính lâu đời, nó là những vẻ đẹp kì dị huyền bí.

Là chứng nhân lịch sử, hàng ngàn năm, nó là minh chứng cho những năm tháng đấu tranh của dân tộc Việt Nam, những điều đó đã tạo nên một vẻ đẹp lịch sử cho dòng sông Hương. Nếu như sông Hương được miêu tả với những vẻ đẹp kì bí, cổ kính và nhẹ nhàng thì dòng sông Đà lại được Nguyễn Tuân miêu tả với hai xu hướng tiêu biểu đó là hai nét tính cách của dòng sông, lúc trữ tình, lúc hoang dại, hung bạo, ở đây hình ảnh của dòng sông Đà cũng được miêu tả dịu dàng, tuôn dài như mái tóc của người con gái Di Gan.

Hình ảnh đó đều gợi lại cho thi sĩ những cảm xúc riêng, đó là vẻ đẹp trữ tình, mơ mộng, hình ảnh đó gắn bó, nhẹ nhàng và da diết, nó làm cho tâm hồn của những người thi sĩ thêm chút nhẹ nhàng.

Có thể thấy vẻ đẹp của dòng sông Việt Nam đã được khái quát hết trong hai con sông tiêu biểu trên và đã được tác giả khắc họa, so sánh với những vẻ đẹp của sự trù phú, của những vẻ đẹp linh thiêng, dòng sông xanh mát chảy trong tâm hồn của người con đất Việt, những hình ảnh đó đều sinh động, nhẹ nhàng và nó gợi lại cho người đọc một cảm giác gần gũi, hơn với thiên nhiên.

Hình ảnh của dòng sông Đà không chỉ nhẹ nhàng mà nó còn được miêu tả qua nhiều hình ảnh sinh động, nhiều chi tiết hấp dẫn như cảnh đẹp nơi đây đi hết vùng thượng nguồn đến hạ nguồn ta đều bắt gặp cảnh đẹp, hình dáng của con sông Đà còn được so sánh như người con gái có mái tóc: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân”. Tất cả những hình ảnh đó đều ẩn hiện lên những vẻ đẹp, những hình ảnh mang đậm giá trị, rõ nét về cảnh vật cũng như giá trị mà mỗi bài thể hiện, hình ảnh đó không chỉ đưa lại cho người đọc một cái nhìn mới mẻ và sâu sắc hơn về dòng sông của Việt Nam.

Mỗi dòng sông mang một vẻ đẹp riêng, nhưng có lẽ điểm chung mà những con sông này gộp lại đó là những vẻ đẹp trữ tình, khi huyền bí khó hiểu nhưng nó cũng đều mang vẻ đẹp nhẹ nhàng, trữ tình, duyên dáng, hình ảnh đó đều góp phần làm nên một cái riêng, một nét tính cách đặc trưng cho những vùng miền khác nhau, hình ảnh về dòng sông Hương qua nhiều cách nhìn, cũng như dòng sông Đà trữ tình đều mang vẻ đẹp trong sáng, nhẹ nhàng của dòng sông quê hương, đất nước.

Những bài văn nói về vẻ đẹp của dòng sông quê hương đất nước, đều mang lại những vẻ đẹp riêng, đó là vẻ đẹp huyền bí, nhẹ nhàng và mang lại giá trị sâu sắc cho người đọc.

------------------------------------

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Thi thpt Quốc gia môn Văn, đề thi học kì 1 lớp 12, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử, Thi thpt Quốc gia môn Địa lý mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

0