Vì sao con người không thể sống nổi nếu nhịn ăn?
Con người không thể nhịn ăn vì cơ thể cần tiêu thụ thức ăn. Dưới đây là bài viết của một Thạc sĩ, bác sĩ về chuyện nhịn ăn ở con người nguy hiểm như thế nào. Trong thiên nhiên tình trạng nhịn ăn kéo dài tương đối phổ biến: Nhiều loài vật hầu như không ăn gì trong suốt thời ...

Con người không thể nhịn ăn vì cơ thể cần tiêu thụ thức ăn.
Dưới đây là bài viết của một Thạc sĩ, bác sĩ về chuyện nhịn ăn ở con người nguy hiểm như thế nào.
Trong thiên nhiên tình trạng nhịn ăn kéo dài tương đối phổ biến:
Nhiều loài vật hầu như không ăn gì trong suốt thời kỳ ngủ đông như gấu dơi, nhím, trăn rắn, vv... Một số loài vật nhịn ăn ngay cả trong thời gian hoạt động: Gà, chim trong giai đoạn ấp trứng hầu như không ăn.
Hải cẩu đực, ngỗng trời đực hầu như không ăn trong suốt mùa giao tình mà vẫn phải chiến đấu mãnh liệt với các đối thủ và lao động cật lực phục vụ bạn tình. Trong một vụ động đất ở New-Zealand, người dân đi sơ tán mà đôi cá vàng vẫn sống mặc dù không được cho ăn trong suốt 2 tháng người chủ bỏ đi. Thế nhưng con người thì không như vậy.
Thông thường trong điều kiện nghỉ ngơi, cơ thể con người vẫn cần khoảng 30 kcal/kg/24h. Trong đó não tiêu thụ khoảng 18% tổng nhu cầu năng lượng của cơ thể. Não chủ yếu sử dụng glucose (khoảng 80g/ngày). Ngoài các nhu cầu năng lượng, cơ thể còn cần nước và các điện giải: natri khoảng 100-150mmol/ ngày, kali khoảng 75-150mmol/ ngày.
Khi một người nhịn ăn kéo dài, cơ thể đáp ứng qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn tiêu thụ glycogen và lipid: Trong vòng 24h đầu tiên chủ yếu cơ thể sử dụng glycogen dự trữ trong gan và một phần trong cơ để tạo gluco. Nồng độ insulin máu hạ thấp, glucagon, adrenalin và noradrenalin tăng cao. Nhu động ruột tăng, cảm giác đói tăng lên, chuyển hoá chỉ giảm ít so với mức bình thường.
Đến khi nguồn glycogen cạn kiệt, cơ thể bắt đầu sử dụng các chất béo dự trữ làm nguồn năng lượng. Triglycerid bị giáng hóa, acid béo chuyển hóa thành ketonic và một phần cùng glycerine được dùng để tổng hợp thành gluco.
Quá trình này gia tăng vào ngày thứ 2 -3 trong quá trình nhịn ăn. Lượng gluco được tạo ra ưu tiên cho não sử dụng, nhưng não cũng vẫn bị tiết chế bớt nhu cầu và chuyển một phần sang sử dụng ketonic. Sau khi nhịn ăn trong 3 ngày, bộ não sử dụng đến 30% năng lượng từ các thể ketonic. Sau 40 ngày nhu cầu này tăng lên đến đến 75%. Giai đoạn này cơ thể có thể giảm đến 1kg/ngày.
Giai đoạn tiêu thụ lipid và protein: Khi quá trình thoái giáng lipid tạo gluco không đủ thì cơ thể tăng cường thoái giáng protein để tổng hợp gluco phục vụ cho hoạt động của não và cơ. Lúc này chuyển hóa cơ thể giảm thấp, não chuyển sang chủ yếu sử dụng ketonic. Cảm giác đói giảm, mạch chậm, nước tiểu giảm, phù nhẹ, thần kinh bị kích thích gây nhức đầu, khó chịu.
Khi não phải tăng tỷ lệ sử dụng các thể ketonic thay cho gluco (có thể tới 70%) thì chuyển sang trạng thái ức chế lờ đờ, thờ ơ. Với những người béo phì, mặc dù cơ thể còn lipid dự trữ nhưng tốc độ chuyển hóa lipid không kịp đảm bảo cho nhu cầu năng lượng của cơ thể nên quá trình tiêu thụ protein xảy ra sớm và nhanh hơn.
Giai đoạn hấp hối: Kéo dài 5-7 ngày. Lúc này dự trữ gluxit và lipit của cơ thể bị cạn kiệt, protein của những tạng cốt tử như cơ tim, thần kinh cũng bị huy động. Chuyển hoá bị rối loạn, nạn nhân hôn mê, rồi tử vong. Thời gian sống trung bình của một người nhịn đói thức ăn khoảng 65-70 ngày.
Tuy nhiên đó là xét về nhu cầu năng lượng. Các nhu cầu về nước điện giải còn cấp thiết hơn. Nhịn nước tuyệt đối chỉ sống được vài ngày do tình trạng kiệt nước. Chế độ nhịn các điện giải có thế sống dài hơn đôi chút.
Trong điều kiện thông thường nhu cầu natri khoảng 100-150 mmol/ ngày, kali khoảng 75-150mmol/ ngày. Nếu bị hạn chế natri, kali, cơ thể đáp ứng bằng cách giảm thải natri, kali qua nước tiểu nhưng tối thiểu vẫn thải khoảng 30-50mmol kali và natri mỗi ngày. Với tổng lượng kali cơ thể thông thường khoảng 2500-4000mmol thì một người nhịn kali có thể chịu được một vài tuần mới có tình trạng hạ kali máu nguy kịch.
Những vấn đề khác đối với người nhịn đói kéo dài:
Tử vong sớm: Tử vong do thiếu năng lượng xảy ra chậm hơn so với tử vong do thiếu nước và điện giải. Tuy nhiên trong một số tình huống có thể tử vong rất sớm nếu tốc độ chuyển hóa của gan thấp, tốc độ tạo gluco không theo kịp với tốc độ sử dụng của của cơ thể gây cơn hạ đường huyết cấp dẫn đến tử vong.
Tình trạng này có thể đồng thời với tình trạng tăng ceton máu do hậu quả của sự giáng hóa lipid. Tử vong sớm còn có thể xảy ra do rối loạn điện giải nếu chế độ ăn kiêng bao hàm cả không bổ xung điện giải.
Tử vong muộn: Ngoài vấn đề tử vong do kiệt năng lượng, tình trạng nhịn đói kéo dài dẫn đến thiểu sản niêm mạc ruột và ngừng tiết enzyme trypsin tại tụy và ruột non.
Khi người bệnh được cho ăn lại thì không tiêu hóa được protein làm tăng sinh vi khuẩn C.welchi type C tại ruột tiết độc tố, các độc tố này không bị trypsin phân hủy sẽ gây viêm ruột hoại tử. Lịch sử đã ghi nhận rất nhiều nạn nhân sống sót qua trận đói kéo dài nhưng ngay sau khi được ăn lại bữa đầu tiên thì chướng bụng, đi ngoài ra máu rồi tử vong nhanh chóng.
Khánh Ngọc
Nguồn tin: Theo infonet.vn