05/02/2018, 12:22

Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Hãy phát biểu ý kiến về

Đánh giá bài viết Xem nhanh nội dung1 Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý ...

Đánh giá bài viết Xem nhanh nội dung1 Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 1 2 Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 2 3 Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 3 Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 1 Mục đích và ý nghĩa của sáng tác văn chương là gì? Giá trị thật sự của văn chương là ở đâu? Những câu hỏi ấy thường đặt ra đối với người cầm bút xưa và nay. Vào giữa những năm ba mươi của thế kỉ XX, văn học nước ta đã nổ ra một cuộc tranh luận sôi nổi về chính vấn đề đó: “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”? Thực ra, không phải tới bây giờ, vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu của lí luận văn học đó mới được đặt ra và mới có những câu trả lời khác nhau của hai phái có hai quan điểm văn chương khác nhau. Từ xưa, cha ông ta đã từng suy nghĩ và phát biểu ý kiến về vấn đề này. Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872) – một danh sĩ đời Nguyễn, văn chương nổi tiếng như Cao Bá Quát và được nhiều người đương thời gọi là “thần Siêu, thánh Quát” – đã nói rất rõ quan điểm của ông: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không dáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.” Thế nào là văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương”? Đó là loại văn chương chỉ biết có nó, tức là coi hình thức nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác chỉ chăm lo cái đẹp của hình thức, không mấy chú ý nội dung tư tưởng và không quan tâm đến đời sống, đến vận mệnh con người, không có trách nhiệm xã hội nào. Biểu hiện của khuynh hướng này cũng đa dạng với những mức độ nặng nhẹ, mức độ tự giác khác nhau, trong những thời đại văn học khác nhau, thuộc những trào lưu khác nhau… Đối với những văn nhân, thi nhân thời xưa thì “chuyên chú ở văn chương” có nghĩa là chỉ chăm chú gò câu đẽo chữ, tìm chữ cho kêu, đặt câu cho khéo, đối cho thật chỉnh, âm điệu thật réo rắt… Hoặc chỉ miệt mài với những trò tiểu xảo cầu kì, như dùng điển tích lắt léo, gieo vần oái oăm, nghĩ ra những kiểu thơ rắc rối kì khu. Hoặc chỉ biết ngâm vịnh phù phiếm, thơ chỉ toàn có mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông… Hồ Chí Minh đã từng nhận xét loại “thơ xưa” thiên về yêu cảnh thiên nhiên đẹp mà không chuyên chú đến cuộc đời, đến vận mệnh con người đó… Quan điểm “nghệ thuật vì nghệ thuật” của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945 là biểu hiện tự giác của loại văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương” nói trên. Các nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam tuyên bố “văn chương là văn chương” nghĩa là văn chương không dính dáng đến cuộc sống, đến xã hội, nó chỉ biết đi tìm cái đẹp và nó chỉ là nó. Một nhà thơ lãng mạn đã viết: Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi? Tôi chỉ là một khách tình si Ham cái đẹp có muôn hình muôn vẻ. (Li tao – Thế Lữ) Đoạn thơ đã đặt ra một định nghĩa về người nghệ sĩ: đó là người khách tình si ham cái đẹp, chỉ có một thiên chức: đi tìm cái đẹp và phụng sự nghệ thuật, chứ không bận tâm đến một trách nhiệm xã hội nào. Có điều là trên thực tế, các cây bút lãng mạn đó không phải chỉ biết săn tìm cái đẹp và dửng dưng trước niềm vui, nỗi buồn của con người đương thời và vì thế, văn học lãng mạn 1930 – 1945 vẫn có những yếu tố tích cực, nhưng đó lại là chuyện khác. Thái độ “chuyên chú ở văn chương” không dừng ở dó. Sau đó, nó còn được đẩy tới cực đoan, trở thành chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa hình thức. Đó là loại văn chương coi hình thức là tất cả, phủ nhận hoàn toàn nội dung của văn chương. Chẳng hạn, nó cho rằng thơ chẳng những không được nói đạo đức, chính trị, xã hội, mà cũng không được tả cảnh; tả hình và không cần nói về bất cứ cái gì, và bảo rằng như thể thơ mới “thuần túy”, mới thật là thơ! Nó khẳng định rằng thơ không cần có nghĩa, thơ chỉ là âm thanh, là hình ảnh… mà thôi. Thứ thơ ấy trở thành bí hiểm, “hũ nút”, không ai hiểu nổi. Thế nào là loại văn chương “chuyên chú ở con người”? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết tới con người, luôn hướng tới cuộc sống và vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương không phải ở câu hay từ đắt mà ở chỗ có ích cho cuộc đời. Đó chính là quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi Goóc-ki nói: “Văn học là nhân học” thì cũng với tinh thần cơ bản là như vậy. Nhà thơ Tố Hữu cũng phát biểu xác đáng về quan điểm này: “Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”. Quan niệm văn chương “chuyên chú ở con người” cũng có những biểu hiện rất đa dạng. Khi Nguyễn Đình Chiểu viết: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, thì với nhà thơ mù, đạo là nhân nghĩa, là yêu nước thương dân, văn chương phải chở đạo và đâm gian tức phải là vũ khí phò chính trừ tà, cứu đời cứu nước. Các nhà thơ, nhà văn cách mạng thì quan niệm một cách dứt khoát với sự tự giác sâu sắc rằng văn chương phải là vũ khí chiến đấu cải tạo xã hội và văn nghệ sĩ phải là người chiến sĩ đứng trong đội ngũ đấu tranh cách mạng. Đó là biểu hiện cao nhất, triệt để nhất của quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người”. Vì sao theo Nguyễn Văn Siêu loại văn chương “đáng thờ” là loại "chuyên chú ở con người" chứ không phải loại “chuyên chú ở văn chương”? Nói văn chương “đáng thờ” là Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến chân giá trị, đến cái cao quý của văn chương. “Thần Siêu” đã khẳng định: chính loại văn chương “chuyên chú ở con người” mới thật sự có giá trị, mới “đáng thờ”. Có thể nói, đó là ý kiến chẳng những xác đáng về lí lẽ mà còn có căn cứ trong thực tiễn văn học. Phải chăng nếu “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì văn chương sẽ tự đánh mất mình, sẽ không còn là nó và không mấy giá trị văn chương, nghệ thuật? Để trả lời câu hỏi này chỉ cần trở lại mệnh đề nổi tiếng dẫn ở trên của Goóc-ki: “Văn học là nhân học”. Con người là trung tâm chú ý, thể hiện của văn học, chứ đâu phải là cái ngoài văn học. Mặt khác, trong văn chương nghệ thuật, hình thức bao giờ cũng gắn liền với nội dung, hình thức – đó là hình thức của nội dung, không có nội dung thì không có hình thức. Xét đến cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm văn chương chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung của tác phẩm một cách nghệ thuật như thế nào. Đành rằng văn chương là một bộ môn nghệ thuật, tức là nó phải tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp. Nhưng "cái đẹp chính là sự sống”, không có cái đẹp “thuần túy”, trừu tượng, không dính dáng đến cuộc sống con người. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ và cái đẹp cũng muôn màu muôn vẻ. Vậy thì “chuyên chú ở con người” đâu phải quay lưng với cái đẹp, văn chương đi ra ngoài con đường của mình? Đâu phải văn chương vì không còn là văn chương, sẽ không có giá trị nghệ thuật? Một tác phẩm văn học có giá trị thì tất nhiên phải có giá trị nghệ thuật, tức là phải hay, phải có văn có nghệ, một nhà văn thật sự phải có tài năng. Nhưng xét đến cùng, cái chủ yếu làm nên giá trị của văn chương lại không phải là hình thức nghệ thuật. Bởi vì, như Nguyễn Du đã viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!”. Cái tâm — đó là tấm lòng, là tình người, tình đời của người cầm bút — mới là cái gốc, làm nên giá trị chân chính của văn chương. Một áng văn thật sự có giá trị thì trước hết là vì nó chứa đựng cái tâm đó của người viết. Những câu thơ Truyện Kiều có sức lay động mạnh mẽ đến thế trước hết là vì đã đọng nỗi đau nhân tình (Tố Hữu) của một nghệ sĩ lớn, một trái tim lớn là Nguyễn Du. Câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà! (Nguyễn Du) có tân kì, có "văn chương" gì đâu, nhưng ai bảo nó không hay, không thuộc loại "đáng thờ"? Vậy là “chuyên chú ở văn chương” mà văn chương chưa chắc đã hay, còn “chuyên chú ở con người” thì văn chương lại thường hay. Áng văn hay phải là áng văn tâm huyết của người cầm bút. Tâm huyết người viết là cái chủ yếu làm nên sức truyền cảm nghệ thuật, sức lay động của tác phẩm văn chương. Cái tâm thường là nguồn nuôi dưỡng, phát huy cái tài. Còn nhà văn dù tài năng đến dâu, chăm sóc văn chương công phu đến đâu, nhưng không hề quan tâm đến đồng loại, dửng dưng trước số phận con người thì cũng không thể nào sáng tác nên những áng văn có giá trị thật sự được, kể cả giá trị nghệ thuật. Lịch sử văn học đã từng ghi lại hiện tượng dường như vô lí: có những nhà văn lớn đã tuyên bố những lời giống như phủ nhận văn chương, nhưng họ vẫn thật sự là lớn, với sự nghiệp sáng tác bất hủ; lại có không ít cây bút có tài, coi văn chương là trên hết, nhưng không có nổi những sáng tác có giá trị. Hồ Chí Minh lúc thiếu thời từng tâm đắc câu thơ cổ: Lập thân tối hạ thị văn chương (lặp thân bằng văn chương là thấp kém nhất), nhưng Người vẫn trở thành nhà “văn chương” lớn. Thực ra, những nhà văn lớn ấy không coi thường văn chương, mà chỉ vì mang nỗi đau nhân tình to lớn, sâu sắc, họ thất vọng về việc văn chương đã không có hiệu quả trực tiếp, thiết thực trong việc làm thay đổi số phận đau thương của con người. Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu về hai loại văn chương “đáng thờ” và “không đáng thờ” trên đây rất tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật đẹp đẽ, trở thành truyền thống của cha ông ta. Chính với quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người” mà cha ông ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo với những biểu hiện đa dạng, phong phú, được nền văn học mới kế thừa và phát huy trong thời đại mới hôm nay. Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 2 Trong nghệ thuật có rất nhiều quan niệm về văn chương, trong đó có cả những quan niệm tích cực và cả những quan niệm tiêu cực. Nam Cao cho rằng: "Văn chương là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Trường Chinh lại viết: "Tác phẩm văn nghệ phải thể hiện sự sống thật hơn là sự sống bình thường, cô đọng hơn, khái quát hơn, cao hơn cuộc sống". Còn Nguyễn Văn Siêu, ông lại cho rằng: "Văn chương có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Khi nhận xét, đánh giá về một quna niệm, ý kiến, chúng ta cần tìm hiểu tổng quát, trong cái sai có cái đúng và trong cái đúng có cái sai. Trong câu nói của Siêu cũng vậy, để hiểu chúng ta rõ chúng ta buộc phải tìm hiểu cặn kẽ và thấu đáo thì mới thấy hết được những ý nghĩa sâu xa trong nó. Nguyên Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát, từng được người đời tôn là "Thần Siêu, Thánh Quát". Quan niệm của Siêu không đơn giản chỉ là một quan niệm văn chương, mà nó còn là một quan niệm trong cuộc sống, trong tính cách của con người. Và đầu tiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu "Văn chương chuyên chú ở văn chương là như thế nào? Văn chương chuyên chú ở con người là như thế nào?" Theo Siêu, văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương là loại văn chương không đáng thờ, là loại văn chương không chân chính, văn chương mà tác giả không xem trọng. Đây là loại văn chương lấy nghệ thuật làm mục đích, làm động lực, chỉ chú ý trau chuốt về hình thức nghệ thuật (ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu,…) mà không quan tâm đến đời sống hiện thực của con người. Còn loại văn chương chuyên chú ở con người là loại văn chương đáng thờ, là văn chương chân chính, văn chương mà tác gia xem trọng. Đây là những tác phẩm lấy con người và đời sống con người làm trọng tâm, mục đích, động lực sáng tác. Mọi dụng công nghệ thuật đều được chi phối bởi nội dung hướng tới đời sống con người. Chúng ta bắt gặp văn chương chân chính ở Nam Cao: "Văn chương làm cho người gần người hơn". Lỗ Tấn: "Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu". Như vậy, chung ta có thể khẳng định câu nói của Siêu rằng: Văn chương có giá trị là văn chương lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người. Ông phân định rạch ròi văn chương ra thành hai loại: văn chương đáng thờ và văn chương không đáng thờ. Việc phân loại như vậy động nghĩa với việc Siêu thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đáng thờ-loại văn chương chỉ lo trau chuốt hình thức mà nội dung thì trống rỗng, không có nghĩa gì. Văn chương là gì nếu nó không nói lên đời sống hiện thực của con người? Cũng giống như một ngôi nhà, văn chương không phải là việc xây những bức tường thật cao, mà điều cần nhất chính là cái móng vững chắc, Như Nam Cao đã từng nói: "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra những gì chưa có. Cao Bá Quát đương thời từng nói: "Đáng phàn nàn cho ta đóng cửa là gọt giũa câu văn Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?" (Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu) Thứ văn chương chỉ áp dụng khuôn mẫu, không đào sâu khám phá thì có khác chi một con sâu ngông cuồng có những ý nghĩ lố bịch, ngạo mạn. Một khi văn chương không giao cảm với đời, không đi sâu vào đời sống con người thì văn chương đó chỉ là cái xác mà không có hồn, chỉ là loại văn chương nhạt nhẽo, bủng beo, cùng lắm thì cũng chỉ là những vật dùng để trưng bày. Họ Cao cho đó là "đồ trẻ con", là sản phẩm của một đôi tay khéo léo nhưng trong tâm hồn thì rỗng tuếch và giả dối. Anh đóng cửa để nghiền ngẫm, suy nghĩ ra những từ ngữ cầu kì, cao quí để hoàn thành tác phẩm của mình, tác phẩm mà anh gọi đó là nghệ thuật. Nhưng anh ơi! anh có biết rằng nghệ thuật mà anh đeo đuổi chính là cuộc sống ngoài kia, một cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có cả nụ cười và nước mắt. Anh có biết rằng: Bài thơ anh làm chỉ có một nửa mà thôi Còn một nửa do mùa thu là lấy. (Chế Lan Viên) Nếu như cứ hì hục viết chiến tranh và hòa bình mà không nếm trải chiến trường thực sự thì liệu L.Tonxtoi có trở nên vĩ đại bởi kiệt tác Chiên tranh và hòa bình hay không? Nếu không trải qua 20 năm lưu lạc thì Nguyễn Du có một Đoạn trường tân thanh hay không? Không Tử từng dạy học trò: "từ đạt nhi dĩ hí", nghĩa là văn từ cần đạt mà thôi, điều quan trọng là cái tâm của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Siêu cũng giống như văn học hiện thực Việt Nam vào giai đoạn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút xoáy sâu vào đời sống con người. M.Gorki: "Văn học là nhân học. Cuộc đời vốn là những giông tố ngày đêm xô dập vào con người, vào lương tâm của mọi thời đại (Balzac). Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn, đã từng viết: Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chương, ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy được nghĩa lí trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng bét thì chỉ biết văn chương mà thôi. Khi đọc tác phẩm Chí Phèo, chúng ta ấn tượng ngay Chí là một thằng bợm rượu Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 3 Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn văn Siêu có viết:"Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại ko đáng thờ.Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biẻu ý kiến về quan niệm trên. Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn chương mà ngay ở thế kỉ XiX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã từng có ý kiến “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn chương là của công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì đuợc chứ không nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào cho đúng. Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là như thế nào? “Văn chương chuyên chú ở văn chương” là loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn…nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, là “văn” kkhông cần biết nội dung, về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức. “Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người, “làm cho người gần người hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. “Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu” (Lỗ Tấn). Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là : Văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người. Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”. Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại “không đáng thờ” không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì nếu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà văn chương chỉ cần những khối óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà chỉ như những đoá hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời: “Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?” (Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu) Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương “một tấc đến trời” , chỉ là một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩa ngông cuồng, múôn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài cuộc sống thì chỉ nhạt nhẽo, bủng beo có chăng chỉ là những đồ lạ mắt ! Họ Cao cho đó là “đồ con trẻ” là sản phẩm của một đôi tay khéo léo trong tâm hồn rỗng toếch và giả dối. Anh đóng cửa phòng văn để viết những gì? Trong khi văn chương của anh là kia, là bầu trời bạt ngàn gió mới, là nắng ban mai hồng tươi sắc ngói. Anh đóng cửa để làm nghệ thuật, để đuổi bắt nghệ thuật khi nghệ thuật của anh ở ngoài kia, ở ngoài thanh sắc trần gian đầy sôi động: Anh có biết rằng : Bài thơ anh làm chỉ một nửa mà thôi Còn một nửa do mùa thu làm lấy (Chế Lan Viên) Văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ chăng? “Văn chương phải có quan hệ với đời” (Ngô Thi Sĩ ) và “ Cuộc đời là nơi đi tới cũng là điểm khởi đầu của văn chương” (Tố Hữu). Nếu L. Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” thì cũng chính là kết quả của những lần ông xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Nếu “đóng cửa phòng văn hì hục viết thì Chiến tranh và hoà bình nó có ra đời không? Nếu không gắn bó, đau đời Nguuyễn Du có một Đoạn trường tân thanh không? Văn chương không thể là như thế, văn chương để người ta gần gũi và tôn kính chứ không phải văn chương “hũ nút” mà người ta có thể “kính nhi viễn chí”. Văn chương như vậy tuyệt đối là không đáng thờ. Khổng Tử đã từng dạy học trò rằng “Từ đạt nhi dĩ hí” (nghĩa là : văn từ cần đạt mà thôi, dễ hiểu mà thôi) điều quan trọng là cái “tâm” của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào giai đọn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người. Cuộc đời cũ vốn cuồn cuộn sóng gió bão táp đau khổ ngày đêm cứ đổ dồn dập vào con người, vào nhân loại , là “lương tâm của mọi thời đại” (Balzac). “Văn phải chở đạo”, phải làm cho con người tốt hơn tự hoàn thiện hơn hay ít ra cũng bắt gặp mình trong đó thì đấy mới là “văn đáng thờ”. Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn đã viết những ý kiến thật xác đáng: “Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chuơng ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy đươc nghĩa lí trong đó, là bậc thứ ahi. Còn hạng bét thì chỉ biết có văn chuơng mà thôi”. Nói đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu múôn nói đến cái giá trị của văn chương. Là nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì văn chương phải vì con người, vì cuộc sống con người, là chiếc đũa thần gợi mở trong con người những cái đẹp cái hay mà triệt tiêu những gì xấu xa, có hại. Văn chương phải hướng đến Chân – thiện- mĩ phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái, phải đem đến cho con người một tia nhìn mới. Có ai đã không từng thấy một thằng say nhâng nháo chửi đời nhưng có ai nhìn ra một anh Chí ao ứôc một thiên đường lương thiện như Nam Cao chưa? Có ai thấy đựơc thế giới tâm hồn của A. Q chưa? Và có ai đã nhìn thấy được cái tình yêu cao quý của một “thằng gù” cực kì xấu xí như Quazimôđô dành cho Extiranđa chưa? Đọc số phận của chàng Quazimôđô hay Chí Phèo ai mà khôgn nghe dâng lên một tí gì của xốn xanh, của một niềm thương yêu tủi hận như muốn nghẹn ngào…Và ta khẳng định rằng : Vâng, chỉ có những hình tượng xúc động lòng người mói là văn chương, còn thuần tuý dùng kĩ thuật chạm trổ cầu kì, làm xiếc ngôn từ để người ta xem như một trò giải trí, “đọc rồi quên ngay sau lúc đọc” đấy chỉ là “thợ” đàu với những con chữ, chứ không là nhà văn, nhà thơ. Người ta thường truyền giai thoại cụ Nguyễn Công Trứ đả kích lối sống sáo rỗng. Ông gặp các thầy cử trên đưòng khoa bảng, theo yêu cầu của họ, ông ngồi trên lưng bò vàng tủm tỉm đọc “Sông Nhị Hà sâu ba mươi sáu thước. Chim ăn chưa béo, cá không ăn bay về núi Hồng Sơn. Nhớ thủa xưa vua Thần Nông giá sắt, vua ĐẾ Thuấn canh vấn. Cùng quăng, cùgn quẳng, cùng quằng, tổng bất ngoại bò vàng chi liếm lá”. Một mớ ngôn từ vô cùng như thế mà ai cũng cho văn hay ý lạ. Cái tủm tỉm của Tồn Chất thâm thuý hay thay. Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đúng song nếu so sánh với quan điểm nghệ thuật của Thạch Lam – Thế hệ hậu bối của “Thần Siêu” – thì có lẽ nhà văn trẻ này phát biểu toàn diện hơn : “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại,văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúgn ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc đựơc thêm trong sạch và phong phú hơn” Không phải ngẫu nhiên hay vô tình mà cụ Nguyễn Du viết: Thiện căn ở tại lòng ta Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài (Truyện Kiều) Rõ ràng, thi sĩ Tiên Điền không hề phủ nhận chữ “tài”. Nhưng nếu coi văn học là một cái cây thì chữ “tài” chỉ là lá cành mà chữ “tâm” kia mới là gốc là ngọn. Cho nên nếu “văn chương” mà chỉ đơn thuần “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì liệu có còn giá trị nữa không? Còn là một bộ môn nghệ thuật nữa chăng? Có văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng. M.Gorki đã khẳng định : “Văn học là nhân loại”, ta phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Đành rằng người ta nói “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” nhưng nếu cả gỗ và nước sơn đề tốt thì sao? Lẽ dĩ nhiên là tốt hơn ! Cho nên nếu cái đẹp đích thực thì có chăng là ở thế giới của con người, và vì vậy văn chương chân chính ( nghĩa là văn chương của cái đẹp ) là văn chương luôn đi đến con người và thế giới con người. Văn chương là nghệ thuật, tức là nó đi tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp nhưng không thể có một cái đẹp thuần tuý lung linh nào ngoài cái thế giới con người. Đề tài cái đẹp văn chương không cần đâu xa lạ mà ở ngay những giản đơn bình thường nhất. Thực ra, văn chương chuyên chú ở văn chương và “văn chương chuyên chú ở con người” là hai mặt của một tờ giấy trắng. “Văn chương chuyên chú ở con người” nhưng không hề quay lưng với cái Đẹp, và ngược lại. Đỗ Phủ đã từng viết “Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” ngôn ngữ phải làm cho người ta kính phục nhưng cái chứa đựng trong ngôn ngữ kia là gì mới là quan trọng. Một tác phẩm có giá trị thì không bao giờ là một tác phẩm thô vụng về ý thức: Khi anh nhìn thấy được những gì ẩn chứa sâu xa nhất của cuộc sống, anh đã có một cái tâm vĩ đại thì ắt hản anh không phải là một con người tầm thường, mà anh biết làm thế nào để nhân laọi này hiểu anh, hiểu cái “tâm” của anh – Nguyễn Du để lại một Đoạn trường tân thanh tràn ngập lòng nhân đạo, nhưng ông cũng để lại một công trình nghệ thuật ngôn từ rất đặc sắc phong phú mà nếu thiếu chúng thì nội dung truyện Kiều chẳng làm say mê bao thế hệ con người. Ở trên ta bàn đến cái khả năng có thể có sự kết hợp giữa “văn chương chuyên chú ở văn chương” và “văn chương chuyên chú ở con người”.Nhưng nếu có một ai đó đưa bạn một sản phẩm và yêu cầu lựa chọn “Đây cái này là tốt gỗ” và đưa một sản phẩm khác bảo là tốt nước sơn, nếu biết giá trị của một cái hào nhoáng nhưng không ra gì và một cái giản dị nhưng vĩ đại bạn sẽ chọn bên nào? Câu hỏi đó có lẽ sẽ là thừa. Cho nên, nếu văn chương chuyên chú ở con người thì dễ có giá trị hơn, nhưng “văn chương chuyên chú ở văn chương” thì chưa hẳn đã hay vì người ta chỉ đọc “đọc rồi quên ngay sau khi đọc”. Cái “tâm” là nguồn nuôi dưỡng để phát huy cái tài. Còn dù có tài đến đâu nếu dửng dưng trước đồng loại đến số phận con người thì cũng khó làm nên một ánh văn chương có giá trị. Vì tâm hồn con người không chỉ tiếp thu cái đẹp mà còn lại cái “nhân” rộng lớn, cái “tình” muôn thuở. Cho nên, dẫu là gì đi nữa thì “chất” ở bên trong vẫn là yếu tố quyết định. Chữ “tâm” là động lực là yếu tố cần thiết nhất. Lịch sử văn học đã có ghi những hiện tượng có những người không hề có ý định làm văn, làm thơ nhưng lại là những người nghệ sĩ lớn, còn có những nhà văn nàh thơ trọn đời cũng không viết được một câi thơ có giá trị nào dù rất kiên tâm, rất dày công đẽo gọt ngôn từ. Từ khóa tìm kiếm:bàn về văn chươngTrong một bức thư bàn luận về văn chương Nguyễn văn Siêu có viết: Văn chương [ ] có loại đáng thờ có loại ko đáng thờ Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trvăn chương đáng thờ và Bài viết liên quanBuy phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: “Phong cách chính là người”. Anh chị hiểu ý kiến trên như thế nào? – Bài tập làm văn số 5 lớp 12Anh chị hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra” – Bài tập làm văn số 5 lớp 12Bài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 10 Bài 32: Hiđro sunfua – Lưu huỳnh đioxit – Lưu huỳnh trioxit (tiếp theo)Bài tập trắc nghiệm Vật lý lớp 10 Các dạng cân bằng – Cân bằng của một vật có mặt chân đếHãy làm cây lau chứng kiến cảnh Vũ Nương chết – Bài tập làm văn số 3 lớp 10Bài tập trắc nghiệm Hóa học lớp 10 Bài 5: Cấu hình electron nguyên tửĐề luyện thi đại học môn Hóa học số 18Bài tập trắc nghiệm Sinh học lớp 11 Bài 1: Sự hấp thụ nước và muối khoáng ở rễ

Xem nhanh nội dung

Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 1

Mục đích và ý nghĩa của sáng tác văn chương là gì? Giá trị thật sự của văn chương là ở đâu? Những câu hỏi ấy thường đặt ra đối với người cầm bút xưa và nay.

Vào giữa những năm ba mươi của thế kỉ XX, văn học nước ta đã nổ ra một cuộc tranh luận sôi nổi về chính vấn đề đó: “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh”? Thực ra, không phải tới bây giờ, vấn đề cơ bản, quan trọng hàng đầu của lí luận văn học đó mới được đặt ra và mới có những câu trả lời khác nhau của hai phái có hai quan điểm văn chương khác nhau. Từ xưa, cha ông ta đã từng suy nghĩ và phát biểu ý kiến về vấn đề này. Nguyễn Văn Siêu (1799 – 1872) – một danh sĩ đời Nguyễn, văn chương nổi tiếng như Cao Bá Quát và được nhiều người đương thời gọi là “thần Siêu, thánh Quát” – đã nói rất rõ quan điểm của ông: “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không dáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.”

Thế nào là văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương”? Đó là loại văn chương chỉ biết có nó, tức là coi hình thức nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác chỉ chăm lo cái đẹp của hình thức, không mấy chú ý nội dung tư tưởng và không quan tâm đến đời sống, đến vận mệnh con người, không có trách nhiệm xã hội nào.

Biểu hiện của khuynh hướng này cũng đa dạng với những mức độ nặng nhẹ, mức độ tự giác khác nhau, trong những thời đại văn học khác nhau, thuộc những trào lưu khác nhau…

Đối với những văn nhân, thi nhân thời xưa thì “chuyên chú ở văn chương” có nghĩa là chỉ chăm chú gò câu đẽo chữ, tìm chữ cho kêu, đặt câu cho khéo, đối cho thật chỉnh, âm điệu thật réo rắt… Hoặc chỉ miệt mài với những trò tiểu xảo cầu kì, như dùng điển tích lắt léo, gieo vần oái oăm, nghĩ ra những kiểu thơ rắc rối kì khu. Hoặc chỉ biết ngâm vịnh phù phiếm, thơ chỉ toàn có mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông… Hồ Chí Minh đã từng nhận xét loại “thơ xưa” thiên về yêu cảnh thiên nhiên đẹp mà không chuyên chú đến cuộc đời, đến vận mệnh con người đó…

Quan điểm “nghệ thuật vì nghệ thuật” của khuynh hướng văn học lãng mạn Việt Nam trước 1945 là biểu hiện tự giác của loại văn chương “chỉ chuyên chú ở văn chương” nói trên. Các nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam tuyên bố “văn chương là văn chương” nghĩa là văn chương không dính dáng đến cuộc sống, đến xã hội, nó chỉ biết đi tìm cái đẹp và nó chỉ là nó. Một nhà thơ lãng mạn đã viết:

Anh dù bảo tính tình tôi thay đổi
Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhưng cần chi?
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham cái đẹp có muôn hình muôn vẻ.
(Li tao – Thế Lữ)

Đoạn thơ đã đặt ra một định nghĩa về người nghệ sĩ: đó là người khách tình si ham cái đẹp, chỉ có một thiên chức: đi tìm cái đẹp và phụng sự nghệ thuật, chứ không bận tâm đến một trách nhiệm xã hội nào. Có điều là trên thực tế, các cây bút lãng mạn đó không phải chỉ biết săn tìm cái đẹp và dửng dưng trước niềm vui, nỗi buồn của con người đương thời và vì thế, văn học lãng mạn 1930 – 1945 vẫn có những yếu tố tích cực, nhưng đó lại là chuyện khác.

Thái độ “chuyên chú ở văn chương” không dừng ở dó. Sau đó, nó còn được đẩy tới cực đoan, trở thành chủ nghĩa duy mĩ, chủ nghĩa hình thức. Đó là loại văn chương coi hình thức là tất cả, phủ nhận hoàn toàn nội dung của văn chương. Chẳng hạn, nó cho rằng thơ chẳng những không được nói đạo đức, chính trị, xã hội, mà cũng không được tả cảnh; tả hình và không cần nói về bất cứ cái gì, và bảo rằng như thể thơ mới “thuần túy”, mới thật là thơ! Nó khẳng định rằng thơ không cần có nghĩa, thơ chỉ là âm thanh, là hình ảnh… mà thôi. Thứ thơ ấy trở thành bí hiểm, “hũ nút”, không ai hiểu nổi.

Thế nào là loại văn chương “chuyên chú ở con người”? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết tới con người, luôn hướng tới cuộc sống và vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương không phải ở câu hay từ đắt mà ở chỗ có ích cho cuộc đời. Đó chính là quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi Goóc-ki nói: “Văn học là nhân học” thì cũng với tinh thần cơ bản là như vậy. Nhà thơ Tố Hữu cũng phát biểu xác đáng về quan điểm này: “Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học”.

Quan niệm văn chương “chuyên chú ở con người” cũng có những biểu hiện rất đa dạng. Khi Nguyễn Đình Chiểu viết: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”, thì với nhà thơ mù, đạo là nhân nghĩa, là yêu nước thương dân, văn chương phải chở đạo và đâm gian tức phải là vũ khí phò chính trừ tà, cứu đời cứu nước.

Các nhà thơ, nhà văn cách mạng thì quan niệm một cách dứt khoát với sự tự giác sâu sắc rằng văn chương phải là vũ khí chiến đấu cải tạo xã hội và văn nghệ sĩ phải là người chiến sĩ đứng trong đội ngũ đấu tranh cách mạng. Đó là biểu hiện cao nhất, triệt để nhất của quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người”.

Vì sao theo Nguyễn Văn Siêu loại văn chương “đáng thờ” là loại "chuyên chú ở con người" chứ không phải loại “chuyên chú ở văn chương”? Nói văn chương “đáng thờ” là Nguyễn Văn Siêu muốn nói đến chân giá trị, đến cái cao quý của văn chương. “Thần Siêu” đã khẳng định: chính loại văn chương “chuyên chú ở con người” mới thật sự có giá trị, mới “đáng thờ”. Có thể nói, đó là ý kiến chẳng những xác đáng về lí lẽ mà còn có căn cứ trong thực tiễn văn học. Phải chăng nếu “chuyên chú ở con người” mà không “chuyên chú ở văn chương” thì văn chương sẽ tự đánh mất mình, sẽ không còn là nó và không mấy giá trị văn chương, nghệ thuật?

Để trả lời câu hỏi này chỉ cần trở lại mệnh đề nổi tiếng dẫn ở trên của Goóc-ki: “Văn học là nhân học”. Con người là trung tâm chú ý, thể hiện của văn học, chứ đâu phải là cái ngoài văn học.

Mặt khác, trong văn chương nghệ thuật, hình thức bao giờ cũng gắn liền với nội dung, hình thức – đó là hình thức của nội dung, không có nội dung thì không có hình thức. Xét đến cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm văn chương chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung của tác phẩm một cách nghệ thuật như thế nào. Đành rằng văn chương là một bộ môn nghệ thuật, tức là nó phải tìm kiếm, sáng tạo cái đẹp. Nhưng "cái đẹp chính là sự sống”, không có cái đẹp “thuần túy”, trừu tượng, không dính dáng đến cuộc sống con người. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ và cái đẹp cũng muôn màu muôn vẻ.

Vậy thì “chuyên chú ở con người” đâu phải quay lưng với cái đẹp, văn chương đi ra ngoài con đường của mình? Đâu phải văn chương vì không còn là văn chương, sẽ không có giá trị nghệ thuật? Một tác phẩm văn học có giá trị thì tất nhiên phải có giá trị nghệ thuật, tức là phải hay, phải có văn có nghệ, một nhà văn thật sự phải có tài năng. Nhưng xét đến cùng, cái chủ yếu làm nên giá trị của văn chương lại không phải là hình thức nghệ thuật. Bởi vì, như Nguyễn Du đã viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!”. Cái tâm — đó là tấm lòng, là tình người, tình đời của người cầm bút — mới là cái gốc, làm nên giá trị chân chính của văn chương. Một áng văn thật sự có giá trị thì trước hết là vì nó chứa đựng cái tâm đó của người viết. Những câu thơ Truyện Kiều có sức lay động mạnh mẽ đến thế trước hết là vì đã đọng nỗi đau nhân tình (Tố Hữu) của một nghệ sĩ lớn, một trái tim lớn là Nguyễn Du. Câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà! (Nguyễn Du) có tân kì, có "văn chương" gì đâu, nhưng ai bảo nó không hay, không thuộc loại "đáng thờ"?

Vậy là “chuyên chú ở văn chương” mà văn chương chưa chắc đã hay, còn “chuyên chú ở con người” thì văn chương lại thường hay. Áng văn hay phải là áng văn tâm huyết của người cầm bút. Tâm huyết người viết là cái chủ yếu làm nên sức truyền cảm nghệ thuật, sức lay động của tác phẩm văn chương. Cái tâm thường là nguồn nuôi dưỡng, phát huy cái tài. Còn nhà văn dù tài năng đến dâu, chăm sóc văn chương công phu đến đâu, nhưng không hề quan tâm đến đồng loại, dửng dưng trước số phận con người thì cũng không thể nào sáng tác nên những áng văn có giá trị thật sự được, kể cả giá trị nghệ thuật.

Lịch sử văn học đã từng ghi lại hiện tượng dường như vô lí: có những nhà văn lớn đã tuyên bố những lời giống như phủ nhận văn chương, nhưng họ vẫn thật sự là lớn, với sự nghiệp sáng tác bất hủ; lại có không ít cây bút có tài, coi văn chương là trên hết, nhưng không có nổi những sáng tác có giá trị. Hồ Chí Minh lúc thiếu thời từng tâm đắc câu thơ cổ: Lập thân tối hạ thị văn chương (lặp thân bằng văn chương là thấp kém nhất), nhưng Người vẫn trở thành nhà “văn chương” lớn.

Thực ra, những nhà văn lớn ấy không coi thường văn chương, mà chỉ vì mang nỗi đau nhân tình to lớn, sâu sắc, họ thất vọng về việc văn chương đã không có hiệu quả trực tiếp, thiết thực trong việc làm thay đổi số phận đau thương của con người.

Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu về hai loại văn chương “đáng thờ” và “không đáng thờ” trên đây rất tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật đẹp đẽ, trở thành truyền thống của cha ông ta. Chính với quan điểm văn chương “chuyên chú ở con người” mà cha ông ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và thấm đượm tinh thần nhân văn, nhân đạo với những biểu hiện đa dạng, phong phú, được nền văn học mới kế thừa và phát huy trong thời đại mới hôm nay.

Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 2

Trong nghệ thuật có rất nhiều quan niệm về văn chương, trong đó có cả những quan niệm tích cực và cả những quan niệm tiêu cực. Nam Cao cho rằng: "Văn chương là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Trường Chinh lại viết: "Tác phẩm văn nghệ phải thể hiện sự sống thật hơn là sự sống bình thường, cô đọng hơn, khái quát hơn, cao hơn cuộc sống". Còn Nguyễn Văn Siêu, ông lại cho rằng: "Văn chương có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Khi nhận xét, đánh giá về một quna niệm, ý kiến, chúng ta cần tìm hiểu tổng quát, trong cái sai có cái đúng và trong cái đúng có cái sai. Trong câu nói của Siêu cũng vậy, để hiểu chúng ta rõ chúng ta buộc phải tìm hiểu cặn kẽ và thấu đáo thì mới thấy hết được những ý nghĩa sâu xa trong nó.

Nguyên Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát, từng được người đời tôn là "Thần Siêu, Thánh Quát". Quan niệm của Siêu không đơn giản chỉ là một quan niệm văn chương, mà nó còn là một quan niệm trong cuộc sống, trong tính cách của con người. Và đầu tiên, chúng ta hãy cùng tìm hiểu "Văn chương chuyên chú ở văn chương là như thế nào? Văn chương chuyên chú ở con người là như thế nào?" Theo Siêu, văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương là loại văn chương không đáng thờ, là loại văn chương không chân chính, văn chương mà tác giả không xem trọng. Đây là loại văn chương lấy nghệ thuật làm mục đích, làm động lực, chỉ chú ý trau chuốt về hình thức nghệ thuật (ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu,…) mà không quan tâm đến đời sống hiện thực của con người. Còn loại văn chương chuyên chú ở con người là loại văn chương đáng thờ, là văn chương chân chính, văn chương mà tác gia xem trọng. Đây là những tác phẩm lấy con người và đời sống con người làm trọng tâm, mục đích, động lực sáng tác. Mọi dụng công nghệ thuật đều được chi phối bởi nội dung hướng tới đời sống con người. Chúng ta bắt gặp văn chương chân chính ở Nam Cao: "Văn chương làm cho người gần người hơn". Lỗ Tấn: "Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu". Như vậy, chung ta có thể khẳng định câu nói của Siêu rằng: Văn chương có giá trị là văn chương lấy đề  tài cảm hứng  từ con người và vì con người. Ông phân định rạch ròi văn chương ra thành hai loại: văn chương đáng thờ và văn chương không đáng thờ. Việc phân loại như vậy động nghĩa với việc Siêu thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đáng thờ-loại văn chương chỉ lo trau chuốt hình thức mà nội dung thì trống rỗng, không có nghĩa gì. Văn chương là gì nếu nó không nói lên đời sống hiện thực của con người? Cũng giống như một ngôi nhà, văn chương không phải là việc xây những bức tường thật cao, mà điều cần nhất chính là cái móng vững chắc, Như Nam Cao đã từng nói: "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra những gì chưa có. Cao Bá Quát  đương thời từng nói:

     "Đáng phàn nàn cho ta đóng cửa là gọt giũa câu văn
     Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ
     Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?"
    (Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu)

Thứ văn chương chỉ áp dụng khuôn mẫu, không đào sâu khám phá thì có khác chi một con sâu ngông cuồng có những ý nghĩ lố bịch, ngạo mạn. Một khi văn chương không giao cảm với đời, không đi sâu vào đời sống con người thì văn chương đó chỉ là cái xác mà không có hồn, chỉ là loại văn chương nhạt nhẽo, bủng  beo, cùng lắm thì cũng chỉ là những vật dùng để trưng bày. Họ Cao cho đó là "đồ trẻ con", là sản phẩm của một đôi tay khéo léo nhưng trong tâm hồn thì rỗng tuếch và giả dối. Anh đóng cửa để nghiền ngẫm, suy nghĩ ra những từ ngữ cầu kì, cao quí để hoàn thành tác phẩm của mình, tác phẩm mà anh gọi đó là nghệ thuật. Nhưng anh ơi! anh có biết rằng nghệ thuật mà anh đeo đuổi chính là cuộc sống ngoài kia, một cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có cả nụ cười và nước mắt. Anh có biết rằng:

           Bài thơ anh làm chỉ có một nửa mà thôi
           Còn một nửa do mùa thu là lấy.
                                              (Chế Lan Viên)

Nếu như cứ hì hục viết chiến tranh và hòa bình mà không nếm trải chiến trường thực sự thì liệu L.Tonxtoi có trở nên vĩ đại bởi kiệt tác Chiên tranh và hòa bình hay không? Nếu không trải qua 20 năm lưu lạc thì Nguyễn Du có một Đoạn trường tân thanh hay không?
Không Tử từng dạy học trò: "từ đạt nhi dĩ hí", nghĩa là văn từ cần đạt mà thôi, điều quan trọng là cái tâm của người viết, nghĩa là thực tế, phải sống trong cuộc đời. Quan niệm của Siêu cũng giống như văn học hiện thực Việt Nam vào giai đoạn 1930-1945, lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút xoáy sâu vào đời sống con người. M.Gorki: "Văn học là nhân học. Cuộc đời vốn là những giông tố ngày đêm xô dập vào con người, vào lương tâm của mọi thời đại (Balzac). Bùi Huy Bích, học trò của Lê Quý Đôn, đã từng viết: Người quân tử đời sau biết chăm học chỉ học hỏi để sửa mình rồi dần dần trở thành người có văn chương, ấy là người bậc nhất. Những người tập làm văn chương rồi thấy được nghĩa lí trong đó, là bậc thứ hai. Còn hạng bét thì chỉ biết văn chương mà thôi. Khi đọc tác phẩm Chí Phèo, chúng ta ấn tượng ngay Chí là một thằng bợm rượu

Trong một bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên – Bài làm 3

Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn văn Siêu có viết:"Văn chương […] có loại đáng thờ, có loại ko đáng thờ.Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biẻu ý kiến về quan niệm trên.

Không đợi đến thế kỉ XX này con người mới có nhiều quan điểm về văn chương mà ngay ở thế kỉ XiX, Nguyễn Văn Siêu, một danh sĩ thời Nguyễn đã từng có ý kiến “Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Song nói như Lê Quý Đôn “Văn chương là của công thiên hạ, ý kiến của mỗi người mỗi khác, phân tích thì đuợc chứ không nên chê mắng”. Cho nên, ý kiến của Nguyễn Văn Siêu đáng nên hiểu lại và hiểu như thế nào cho đúng.

Nguyễn Văn Siêu là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ là “Thần Siêu, Thánh Quát”. Quan niệm của ông không phải là một quan niệm dễ dãi, điều quan trọng là ta phải hiểu cho đúng ý nghĩa của câu nói “Văn chương chuyên chú ở văn chương”, “văn chương chuyên chú ở con người” là như thế nào?

“Văn chương chuyên chú ở văn chương” là loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, tìm những chữ thật kêu, những điển tích cổ bí ẩn…nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, là “văn” kkhông cần biết nội dung, về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức.

“Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người, “làm cho người gần người hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Ở đây là các yếu tố hình thức là sự phát tiết anh hoa một cách tự nhiên, không cố ý. “Vọt lên từ suối là nước, từ tim người là máu” (Lỗ Tấn).

Như vậy đại ý của câu nói của họ Nguyễn là : Văn chương có giá trị khi lấy đề tài cảm hứng từ con người và vì con người.

Đầu tiên Nguyễn Văn Siêu nói “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”. Ông thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người, văn chương như thế là loại “không đáng thờ” không đáng để đọc, để học hỏi. Văn chương là gì nếu không nói về con người, về nhân sinh? Văn chương đầu cần đến những người thợ mà văn chương chỉ cần những khối óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà chỉ như những đoá hoa đẹp nhưng hữu sắc mà vô hương, thì nó đâu còn là văn chương nữa. Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu rất giống như Cao Bá Quát đương thời:

“Đáng phàn nàn cho ta đóng chửa mà gọt giũa câu văn
Lải nhải nhai lại từng câu từng chữ
Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời?”
(Đề sát viện Bùi Công, yên đài anh ngữ khúc hậu)

Không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bắt đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương “một tấc đến trời” , chỉ là một con sâu bé nhỏ hèn mọn ngạo mạn lố bịch có những ý nghĩa ngông cuồng, múôn đo cả vũ trụ. Những lời văn viết ra bằng sự khổ công gọt giũa trong bốn bức tường văn lạnh lẽo sẽ như một sinh vật tự dưỡng, văn chương thiếu cái mở lòng ra đón những vang động cuộc đời, thiếu sự hô hấp các dưỡng khí ngoài cuộc sống thì

Nguyễn Minh

0 chủ đề

23664 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0