25/05/2018, 08:56

Tổ chức lao động khoa học trong doanh nghiệp

Quan niệm về tổ chức lao động khoa học. Kết quả hoạt động của con người trong quá trình sản xuất chỉ đạt được cao nhất khi công việc của họ được tổ chức trên cơ sở khoa học. Do vậy tổ chức lao động chỉ thực sự là khoa học ...

Quan niệm về tổ chức lao động khoa học.

Kết quả hoạt động của con người trong quá trình sản xuất chỉ đạt được cao nhất khi công việc của họ được tổ chức trên cơ sở khoa học. Do vậy tổ chức lao động chỉ thực sự là khoa học khi nó được xem xét ứng dụng những thành tựu khoa học và những kinh nghiệm tiên tiến cho việc thiết lập quá trình lao động và làm tốt hệ thống con người, tư liệu lao động và môi trường lao động. Cần gạt bỏ ngăn ngừa những tác động không tốt của máy móc kỹ thuật và môi trường lên người lao động.

Vì vậy, trong điều kiện hiện nay tổ chức lao động khoa học cần được coi là việc tổ chức lao động dựa trên những thành tựu khoa học và kinh nghiệm tiên tiến. Việc ứng dụng chúng một cách có hệ thống vào quá trình sản xuất cho phép liên kết một cách tốt nhất kỹ thuật và con người trong quá trình sản xuất nhằm sử dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng kỹ thuật và con người, tăng năng suất lao động và dần dần biến lao động thành nhu cầu sống đầu tiên.

Nếu trước kia chúng ta hiểu việc hoàn thiện hoá tổ chức lao động như là loại bỏ những chỗ chật hẹp trong sản xuất thì tổ chức lao động khoa học là sự nâng cao trình độ tổ chức lao động chung mà không tiến hành những biện pháp riêng lẻ tản mạn. Khi giải quyết các vấn đề của tổ chức lao động khoa học cần dựa vào những nghiên cứu khoa học thực nghiệm và tính toán những tác động của môi trường sản xuất lên tâm sinh lý của người lao động.

Tổ chức lao động khoa học khác với tổ chức lao động nói chung không phải là ở nội dung mà ở phương pháp, cách giải quyết và mức độ phân tích khoa học các vấn đề mà nó nghiên cứu.

Tổ chức lao động khoa học chính là tổ chức lao động ở trình độ cao hơn so với tổ chức lao động hiện hành. Tổ chức lao động khoa học cần phải được áp dụng ở mọi nơi có hoạt động lao động của con người.

Mục đích, ý nghĩa và nhiệm vụ của tổ chức lao động khoa học.

- Mục đích: Là nhằm đạt kết quả lao động cao đồng thời đảm bảo sức khoẻ, an toàn cho người lao động phát triển toàn diện con người lao động, góp phần củng cố các mối quan hệ xã hội giữa các người lao động .

Mục đích đó được xác định từ sự đánh giá cao vai trò của con người trong quá trình tái sản xuất xã hội. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, con người giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu. Do đó, mọi biện pháp cải tiến tổ chức lao động, cải tiến tổ chức sản xuất đều phải hướng vào tạo điều kiện cho con người lao động có hiệu quả hơn, khuyến khích và thu hút con người tự giác tham gia vào lao động và làm cho bản thân người lao động ngày càng hoàn thiện.

- Ý nghĩa : Việc áp dụng các biện pháp tổ chức lao động khoa học (TCLĐKH) trong sản xuất có một ý nghĩa kinh tế và xã hội hết sức to lớn.Trước hết TCLĐKH trong doanh nghiệp cho phép nâng cao năng suất lao động và tăng cường hiệu quả của sản xuất nhờ tiết kiệm lao động sống và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất hiện có, TCLĐKH là điều kiện không thể thiếu được để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất. Mặc dù phương tiện,thiết bị quan trọng có tính chất quyết định, đảm bảo hiệu quả sản xuất cao và tiết kiệm hao phí lao động xã hội là việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nhưng nếu thiếu một trình độ tổ chức lao động phù hợp với trình độ phát triển của kỹ thuật và công nghệ sản xuất trong mỗi doanh nghiệp thì thậm chí có kỹ thuật hiện đại nhất cũng không thể đem lại hiệu quả thoả đáng được. Đồng thời, trình độ tổ chức lao động cao lại cho phép đạt được hiệu quả cả trong khi cơ sở kỹ thuật rất bình thường. Có thể đạt được hiệu quả đó nhờ giảm những tổn thất và hao phí thời gian không sản xuất, nhờ áp dụng những phương pháp và thao tác lao động hợp lý, cải tiến việc lựa chọn và bố trí cán bộ, công nhân trong sản xuất, áp dụng hàng loạt biện pháp đảm bảo nâng cao năng lực làm việc, giảm mệt mỏi cho cán bộ công nhân, khuyến khích lao động và tăng cường kỷ luật lao động vv….

Ngoài ra, ý nghĩa của TCLĐKH còn có tác dụng làm giảm hoặc loại trừ hẳn nhu cầu về vốn đầu tư cơ bản, vì nó đảm bảo tăng năng suất lao động nhờ áp dụng các phương pháp tổ chức các quá trình lao động hoàn thiện nhất.

Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp TCLĐKH lại có tác dụng thúc đẩy sự phát triển, hoàn thiện của kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ kỹ thuật hoá quá trình lao động và đó lại chính là điều kiện để tiếp thu nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất. TCLĐKH không chỉ có ý nghĩa nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất … còn có tác dụng giảm nhẹ lao động và an toàn lao động, đảm bảo sức khoẻ người lao động và phát triển con người toàn diện, thu hút con người tự giác tham gia vào lao động cũng như nâng cao trình độ văn hoá sản xuất thông qua việc áp dụng các phương pháp lao động an toàn và ít mệt mỏi nhất, áp dụng các chế độ làm việc nghỉ ngơi hợp lý, loại trừ những yếu tố môi trường độc hại, tạo ra những điều kiện lao động thuận lợi ở từng bộ phận sản xuất và tại từng nơi làm việc, bố trí người lao động thực hiện những công việc phù hợp với khả năng và sở trường của họ…

- Nhiệm vụ: Trong điều kiện xã hội phát triển, tổ chức lao động khoa học thực hiện 3 nhóm nhiệm vụ: Kinh tế - Tâm sinh lý - Xã hội.

  • Kinh tế: Phải kết hợp một cách tốt nhất kỹ thuật và con người trong quá trình sản xuất để ứng dụng có hiệu quả nhất những tiềm năng lao động và vật chất với mục đích không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng lao động, giảm giá thành sản phẩm.
  • Tâm sinh lý: Tạo điều kiện lao động bình thường, nâng cao sức hấp dẫn và nội dung phong phú của lao động với mục đích đem lại khả năng lao động cao của con người và giữ gìn sức khoẻ của họ.
  • Xã hội: Tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, biến lao động thành nhu cầu sống đầu tiên trên cơ sở dung hoà giáo dục chính trị với giáo dục lao động.

Cơ sở và nguyên tắc của tổ chức lao động khoa học

Cơ sở để tiến hành nghiên cứu quy định và thực hiện các nội dung của tổ chức lao động khoa học bao gồm các quy luật tăng năng suất lao động, quy luật phát triển các kế hoạch nền kinh tế quốc dân. Những nguyên tắc tổ chức lao động khoa học ngoài những nguyên tắc chung về quản lý kinh tế như nguyên tắc khoa học, nguyên tắc kế hoạch, nguyên tắc hệ thống, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc quan tâm và trách nhiệm bằng kích thích vật chất, nguyên tắc tiết kiệm còn phải chú ý đến các nguyên tắc sau:

- Nguyên tắc tiết kiệm không có động tác thừa.

- Nguyên tắc làm việc kiêm cử động và động tác lao động.

- Làm việc theo một trình tự hợp lý trên cơ sở quy hoạch hợp lý nơi làm việc và hoàn thiện trang thiết bị, công nghệ.

- Phù hợp giữa tính chất các cử động và động tác lao động với các đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể người lao động.

- Quy định tối ưu chế độ phục vụ nơi làm việc.

- Phù hợp giữa trình độ người lao động với tính chất của công việc thực hiện.

- Định mức lao động có căn cứ kỹ thuật và tâm sinh lý lao động.

- Phù hợp giữa mức lao động và các điều kiện kỹ thuật tổ chức sản xuất.

- Nguyên tắc mức đồng đều.

Vận dụng đồng thời các nguyên tắc trên và luôn luôn quan tâm đảm bảo các nguyên tắc đó trong quá trình phát triển sản xuất là một yêu cầu không thể thiếu được của nội dung lãnh đạo sản xuất trong doanh nghiệp BCVT.

BCVT bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

Cải tiến việc tổ chức và phục vụ nơi làm việc.

Nơi làm việc là một phần diện tích và không gian sản xuất được trang bị thiết bị các phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ sản xuất đã xác định.

Trong điều kiện sản xuất hiện đại, giữa các nơi làm việc trong doanh nghiệp có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Nhịp độ sản xuất của từng bộ phận của phân xưởng hoặc toàn doanh nghiệp là do nhịp độ sản xuất của từng nơi làm việc quyết định. Vì vậy, muốn nâng cao năng suất lao động, muốn tiến hành sản xuất với hiệu quả cao và đào tạo lớp người lao động mới thì phải tổ chức và phục vụ nơi làm việc. Trình độ tổ chức và phục vụ nơi làm việc cũng có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ và hứng thú của người lao động.

Nhiệm vụ của tổ chức và phục vụ nơi làm việc là:

- Tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết để tiến hành các nhiệm vụ sản xuất với năng suất cao .

- Bảo đảm cho quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và nhịp nhàng .

- Bảo đảm những điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành quá trình lao động và tạo sự hứng thú tích cực cho người lao động .

- Bảo đảm khả năng thực hiện các động tác lao động trong tư thế thoải mái, cho phép áp dụng các phương pháp và thao tác lao động tiên tiến .

  • Tổ chức nơi làm việc

Tổ chức nơi làm việc là một hệ thống các biện pháp nhằm thiết kế nơi làm việc, trang bị cho nơi làm việc những công cụ thiết bị cần thiết và sắp xếp bố trí chúng theo một trật tự nhất định.

Tổ chức nơi làm việc gồm có ba nội dung chủ yếu:

- Thiết kế nơi làm việc: Là việc xây dựng các thiết kế mẫu cho các nơi làm việc nhằm nâng cao hiệu quả lao động của công nhân.

- Trang bị nơi làm việc: Là đảm bảo đầy đủ các loại máy móc, thiết bị, dụng cụ… cần thiết cho nơi làm việc theo yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất và chức năng lao động . Nơi làm việc thường được trang bị các thiết bị chính (thiết bị công nghệ) và thiết bị phụ.

- Bố trí nơi làm việc: Là việc sắp xếp một cách hợp lý trong không gian tất cả các phương tiện vật chất của sản xuất tại nơi làm việc.

- Chỉ tiêu đánh giá trình độ tổ chức nơi làm việc .

Hệ số trình độ tổ chức nơi làm việc :

KNLV nhóm =

Nlv : Tổng số nơi làm việc của nhóm , ( bộ phận ).

NlvK : Tổng số nơi làm việc không đạt yêu cầu .

Hệ số trình độ tỏ chức nơi làm việc của đơn vị :

KNLV = (n : số nhóm hay bộ phận của đơn vị ).

  • Tổ chức phục vụ nơi làm việc

Tổ chức phục vụ nơi làm việc là cung cấp cho nơi làm việc các loại phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết và tạo các điều kiện thuận lợi để tiến hành quá trình lao động. Nói khác đi, tổ chức phục vụ nơi làm việc là tổ chức đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cho các nơi làm việc để quá trình lao động diễn ra một cách liên tục và có hiệu quả.

Nếu việc tổ chức phục vụ nơi làm việc mà không tốt thì sẽ dẫn đến lãng phí thời gian lao động rất lớn. Vì vậy, tổ chức phục vụ nơi làm việc là điều kiện không thể thiếu được của bất kỳ quá trình sản xuất nào.

Để phục vụ nơi làm việc một cách đồng bộ và có hiệu quả thì việc tổ chức phục vụ nơi làm việc trong doanh nghiệp cần phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:

- Phục vụ theo chức năng nghĩa là việc xây dựng hệ thống phục vụ nơi làm việc phải theo các chức năng phục vụ riêng biệt, phải căn cứ vào nhu cầu của sản xuất về số lượng, chất lượng và tính quy luật của từng chức năng để tổ chức phục vụ được đầy đủ và chu đáo.

- Phục vụ theo kế hoạch nghĩa là phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất để xây dựng kế hoạch phục vụ sao cho việc phục vụ phù hợp với tình hình sản xuất, sử dụng một cách có hiệu quả lao động và thiết bị, giảm bớt thời gian lãng phí do chờ đợi phục vụ.

- Phục vụ phải mang tính dự phòng, nghĩa là hệ thống phục vụ phải chủ động đề phòng những hỏng hóc thiết bị để đảm bảo sản xuất được liên tục trong mọi tình huống.

- Phục vụ phải mang tính đồng bộ, nghĩa là cần phải cần có sự phối hợp giữa các chức năng phục vụ khác nhau trên quy mô toàn doanh nghiệp để đáp ứng mọi nhu cầu phục vụ, không để thiếu một nhu cầu nào.

- Phục vụ phải mang tính linh hoạt, nghĩa là hệ thống phục vụ phải nhanh chóng loại trừ các hỏng hóc, thiếu sót không để sản xuất chính bị ngừng trệ.

- Đảm bảo chất lượng và độ tin cậy cao.

- Phục vụ phải mang tính kinh tế, nghĩa là phục vụ tốt cho sản xuất với chi phí về lao động và tiền vốn ít nhất.

Trong một doanh nghiệp thường áp dụng một trong các hình thức phục vụ là: phục vụ tập trung, phục vụ phân tán hoặc phục vụ hỗn hợp.

Để đánh giá khả năng phục vụ người ta dùng hệ số phục vụ nơi làm việc

KPV =

Hoàn thiện các hình thức phân công và hiệp tác lao động.

Phân công và hiệp tác lao động là nội dung cơ bản nhất của tổ chức lao động. Do phân công lao động mà tất cả các cơ cấu về lao động trong doanh nghiệp được hình thành, tạo nên một bộ máy với tất cả các bộ phận, chức năng cần thiết, với những tỉ lệ tương ứng theo yêu cầu của sản xuất. Hiệp tác lao động là sự vận hành của cơ cấu ấy trong không gian và thời gian. Hai nội dung này liên hệ với nhau một cách mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau, củng cố và thúc đẩy nhau một cách biện chứng. Phân công lao động càng sâu thì hiệp tác lao động càng rộng.

  • Phân công lao động

Phân công lao động trong doanh nghiệp là sự chia nhỏ toàn bộ các công việc của doanh nghiệp để giao cho từng người hoặc nhóm người lao động thực hiện. Đó chính là quá trình gắn từng người lao động với những nhiệm vụ phù hợp với khả năng của họ. Theo C.Mác thì phân công lao động: “là sự tách rẽ các hoạt động lao động hoặc là lao động song song, tức là tồn tại các dạng lao động khác nhau “.

Trong nội bộ doanh nghiệp, phân công lao động bao gồm các nội dung sau:

- Xác định những yêu cầu kỹ thuật của công việc và con người phải đáp ứng.

- Xây dựng danh mục những nghề nghiệp của xí nghiệp, thực hiện việc tuyên truyền, hướng nghiệp và tuyển chọn cán bộ, công nhân một cách khách quan theo những yêu cầu của sản xuất

- Thực hiện sự bố trí cán bộ, công nhân theo đúng những yêu cầu của công việc, áp dụng những phương pháp huấn luyện có hiệu quả. Sử dụng hợp lý những người đã được đào tạo, bồi dưỡng tiếp những người có khả năng phát triển, chuyển và đào tạo lại những người không phù hợp với công việc.

Phân công lao động hợp lý chính là điều kiện để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất. Do phân công lao động mà có thể chuyên môn hoá được công nhân, chuyên môn hoá được công cụ lao động, cho phép tạo ra được những công cụ chuyên dụng có năng suất lao động cao, người công nhân có thể làm một loạt bước công việc, không mất thời gian vào việc điều chỉnh lại thiết bị, thay dụng cụ để làm các thiết bị khác nhau.

Phân công lao động trong doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Đảm bảo phù hợp giữa nội dung và hình thức của phân công lao động với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

- Để đảm bảo sự phù hợp giữa những khả năng sản xuất và phẩm chất của con người, phải lấy yêu cầu công việc làm tiêu chuẩn để lựa chọn người lao động.

- Đảm bảo sự phù hợp giữa công việc phân công với đặc điểm và khả năng của lao động, phát huy được tính sáng tạo của họ.

Các hình thức phân công lao động trong doanh nghiệp bao gồm:

- Phân công lao động theo chức năng: Là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các công việc khác nhau thành những chức năng lao động nhất định.

- Phân công lao động theo công nghệ: Là hình thức phân công lao động trong trong đó tách riêng các loại công việc khác nhau theo tính chất, quy trình công nghệ thực hiện chúng.

- Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc: Là hình thức phân công lao động trong trong đó tách riêng các công việc khác nhau tuỳ theo tính chất phức tạp của nó.

Hệ số phân công lao động :

KPC =

Trong đó : tK : Tổng thời gian thực hiện công việc không được quy định trong nhiệm vụ của công nhân trong ca , giờ làm làm việc .

TCa : Thời gian ca , giờ làm việc

n : Số công nhân của nhóm được phân tích .

  • Hiệp tác lao động.

C. Mác đã định nghĩa hiệp tác lao động như sau: “hình thức làm việc mà trong đó nhiều người làm việc bên cạnh nhau một cách có kế hoạch và trong sự tác động qua lại lẫn nhau trong một quá trình sản xuất nào đó, hoặc là trong những quá trình sản xuất khác nhau nhưng lại liên hệ với nhau gọi là hiệp tác lao động”.

Cũng có thể hiểu hiệp tác lao động là sự chuyển từ lao động cá nhân sang dạng lao động kết hợp của nhiều người trong cùng một quá trình hoặc trong những quá trình lao động khác nhau.

Hiệu quả mà hiệp tác lao động mang lại là những thay đổi có tính chất cách mạng điều kiện vật chất của quá trình lao động, nó mang lại những kết quả lao động cao hơn hẳn so với lao động riêng lẻ, đặc biệt là với những lao động phức tạp. Nó cũng làm tăng khả năng làm việc cá nhân của từng người lao động do sự xuất hiện tự phát tinh thần thi đua giữa những người cùng tham gia quá trình sản xuất .

Trong các doanh nghiệp thường sử dụng các hình thức hiệp tác lao động sau:

- Hiệp tác về mặt không gian : Gồm các hình thức hiệp tác giữa các phân xưởng chuyên môn hoá, hiệp tác giữa các ngành, các bộ phận chuyên môn trong cùng một doanh nghiệp, giữa các lao động trong một tổ sản xuất.

- Hiệp tác về mặt thời gian: Là việc tổ chức các ca làm việc trong ngày và đêm. Do yêu cầu của sản xuất và tận dụng năng lực của thiết bị máy móc nên phải bố trí các ca làm việc một cách hợp lý, đảm bảo sức khoẻ cho người lao động.

Hiệp tác lao động chặt chẽ tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. kích thích tinh thần thi đua trong sản xuất, tiết kiệm được lao động sống và lao động vật hoá.

Hệ số hiệp tác lao động giữa công nhân chính và công nhân phục vụ :

Kht = 1 -

Trong đó : TLP : Tổng thời gian lãng phí trong một thời kỳ nhất định do phục vụ không tốt các nơi làm việc được phân tích .

Hoàn thiện công tác định mức lao động.

Định mức lao động trong doanh nghiệp BCVT là lĩnh vực hoạt động thực tiễn về xây dựng và áp dụng các mức lao động đối với tất cả các quá trình lao động.

Định mức lao động chịu tác động của các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Mặt khác, trong nền sản xuất xã hội, định mức lao động cũng thực hiện nhiều chức năng quan trọng khác nhau. Hiệu quả của nó tuỳ thuộc vào mức độ và tính chất tiên tiến, có căn cứ khoa học của các mức lao động cụ thể.

Định mức lao động tạo khả năng kế hoạch hoá tốt hơn, đảm bảo thực hiện có hiệu quả nhất việc tính toán xác định số lượng máy móc thiết bị và số lượng lao động cần thiết, khuyến khích nguồn dự trữ trong sản xuất vv…

Trong thực tế, các doanh nghiệp BCVT thường sử dụng các mức lao động sau: mức thời gian, mức sản lượng, mức phục vụ, mức thời gian phục vụ, mức số lượng người lao động, mức quản lý…

Mức thời gian là số lượng thời gian cần thiết được quy định để một công nhân hoặc một nhóm công nhân có trình độ lành nghề nhất định hoàn thành một đơn vị công việc trong những điều kiện tổ chức – kỹ thuật nhất định. Mức sản lượng là số lượng sản phẩm được quy định để công nhân hay một nhóm công nhân có trình độ thành thạo nhất định phải hoàn thành trong một đơn vị thời gian với những điều kiện tổ chức – kỹ thuật nhất định. Mức thời gian và mức sản lượng có liên quan mật thiết với nhau, tuỳ điều kiện và đặc điểm của sản xuất mà người ta tính mức thời gian hay là mức sản lượng.

TCLĐKH trong doanh nghiệp BCVT có nhiệm vụ hoàn thiện các phương pháp định mức lao động, mở rộng định mức có căn cứ khoa học. Nghiên cứu thời gian lao động, kết cấu mức thời gian, phương pháp định mức lao động, phân tích khảo sát xây dựng mức mới nếu có thời gian.

Điều kiện lao động và chế độ làm việc nghỉ ngơi.

• Điều kiện lao động

Quá trình lao động của con người bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường sản xuất nhất định. Mỗi môi trường sản xuất khác nhau có các nhân tố khác nhau tác động đến người lao động. Tổng hợp các nhân tố ấy chính là điều kiện lao động. Vậy điều kiện lao động là tổng hợp các nhân tố của môi trường sản xuất có ảnh hưởng đến sức khoẻ và khả năng làm việc của người lao động.

Điều kiện lao động trong doanh nghiệp được phân làm 5 nhóm nhân tố như sau:

- Nhóm các điều kiện tâm sinh lý lao động: Sự căng thẳng về thể lực, sự căng thẳng về thần kinh, nhịp độ lao động, tư thế lao động, tính đơn điệu của lao động.

- Nhóm điều kiện vệ sinh phòng bệnh của môi trường: Vi khí hậu, tiếng ồn, rung động, siêu âm, môi trường không khí, tia bức xạ, tia hồng ngoại, sự tiếp xúc với dầu mỡ, hoá chất độc hại; phục vụ vệ sinh và sinh hoạt.

- Nhóm điều kiện thẩm mỹ của lao động: Bố trí không gian sản xuất và sự phù hợp với thẩm mỹ, sự phù hợp của trang thiết bị với yêu cầu của thẩm mỹ, một số yếu tố khác của thẩm mỹ…

- Nhóm điều kiện tâm lý xã hội: Bầu không khí tâm lý trong tập thể, tác phong của người lãnh đạo, khen thưởng và kỷ luật, điều kiện để thể hiện thái độ đối với người lao động, thi đua, phát huy sáng kiến.

- Nhóm điều kiện chế độ làm việc và nghỉ ngơi: Sự luân phiên giữa làm việc và nghỉ lao. Độ dài thời gian nghỉ, hình thức nghỉ.

Các nhân tố trên đều có ảnh hưởng, tác động đến sức khoẻ, khả năng làm việc của con người trong quá trình lao động. Mỗi nhân tố khác nhau có mức độ tác động ảnh hưởng khác nhau. Nhiệm vụ của cải thiện điều kiện lao động là đưa hết tất cả những nhân tố điều kiện lao động vào trạng thái tối ưu để chúng không dẫn tới sự vi phạm các hoạt động sống của con người mà ngược lại có tác dụng thúc đẩy củng cố sức khoẻ, nâng cao khả năng làm việc.

• Chế độ làm việc nghỉ ngơi

Chế độ làm việc và nghỉ ngơi là trật tự luân phiên và độ dài thời gian của các giai đoạn làm việc và nghỉ giải lao được thành nhịp đối với mỗi dạng lao động. Chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong doanh nghiệp bao gồm: chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong ca. Chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong tuần trong tháng, chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong năm.

Trong nền sản xuất hiện đại có đặc trưng là trình độ phân công và hiệp tác lao động phát triển ở mức cao, quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm phức tạp, vì thế càng đòi hỏi phải xây dựng chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý. Vì chế độ làm việc và nghỉ ngơi có ảnh hưởng đến tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, ảnh hưởng đến tính liên tục của cả quá trình sản xuất. Mặt khác chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý là một phương tiện để khắc phục sự mệt mỏi, là một biện pháp để tăng năng suất lao động và bảo vệ sức khoẻ người lao động.

Các hình thức kích thích vật chất và tinh thần đối với người lao động.

Theo Mác, mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là làm thoả mãn ngày càng đầy đủ hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của bản thân người lao động. Muốn đạt được mục đích đó thì phải không ngừng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một trong những nhân tố quan trọng để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả của sản xuất là thường xuyên áp dụng và hoàn thiện các biện pháp khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người lao động, tức là thoả mãn các nhu cầu của họ.

Nhu cầu cuộc sống của người lao động rất phong phú và đa dạng. Nó có tính lịch sử và tính giai cấp rõ rệt. Nhu cầu và sự thoả mãn nhu cầu đều gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội và sự phân phối các giá trị vật chất và tinh thần trong điều kiện xã hội đó.

Trong các nhu cầu của người lao động, nhu cầu về vật chất là nhu cầu hàng đầu đảm bảo đời sống cho họ làm việc tạo ra các của cải vật chất và làm nên lịch sử. Cùng với sự phát triển của lịch sử, các nhu cầu vật chất của con người ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Trình độ phát triển của xã hội ngày càng cao thì nhu cầu càng nhiều, càng phức tạp hơn, thậm chí những nhu cầu đơn giản nhất cũng không ngừng thay đổi .

Nhu cầu về tinh thần của người lao động cũng rất phong phú và đa dạng.

- Thứ nhất: Họ có nhu cầu lao động, nhu cầu làm việc có ích, có hiệu quả cho bản thân và xã hội. Bởi vì , lao động là hoạt động quan trọng của con người, là nguồn gốc của mọi sáng tạo của con người, là nơi phát sinh mọi kinh nghiệm và tri thức khoa học nhằm làm giàu cho xã hội và thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng của con người.

- Thứ hai: Nhu cầu học tập để nâng cao trình độ chuyên môn và nhận thức. Khi trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao thì nhu cầu học tập của người lao động càng lớn và nhờ đó họ nhận thức thế giới xung quanh đúng đắn hơn. Mọi biện pháp nhằm thoả mãn nhu cầu học tập và nâng cao nhận thức cho người lao động, thực chất là khuyến khích họ học tập để vươn tới những kiến thức chuyên môn cao hơn, những khả năng sáng tạo mới hiệu quả hơn.

- Thứ ba: Nhu cầu thẩm mỹ và giao tiếp xã hội. Đây là nhu cầu tinh thần đặc biệt và tất yếu của con người đòi hỏi người lãnh đạo doanh nghiệp cần phải quan tâm.

- Thứ tư: Nhu cầu công bằng xã hội, trong lao động cũng như trong cuộc sống ngày nay mọi người đều muốn sự công bằng. Công bằng xã hội là nhu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài, mỗi người và mỗi tập thể cần phấn đấu được thoả mãn, đồng thời đấu tranh chống lại mọi bất công, tiêu cực để giành lấy sự công bằng cao hơn đầy đủ hơn.

Tăng cường kỷ luật lao động và tổ chức thi đua.

  • Tăng cường kỷ luật lao động

Kỷ luật là nền tảng để xây dựng xã hội. Không có kỷ luật thì không thể điều chỉnh được mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất và các hoạt động của họ trong các tổ chức xã hội. Kỷ luật là những tiêu chuẩn quy định hành vi của con người trong xã hội, nó được xây dựng trên cơ sở pháp lý hiện hành và những chuẩn mực đạo đức xã hội .

Kỷ luật lao động là sự tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm túc tự nguyện, tự giác của những người lao động đối với các nội quy lao động trong các cơ quan, doanh nghiệp và tổ chức, đồng thời đó cũng là thước đo đạo đức và lối sống của người lao động. Kỷ luật lao động là một khái niệm rộng, được xem xét ở nhiều góc độ.

- Về mặt lao động: Kỷ luật lao động là sự chấp hành và thực hiện một cách tự nguyện, tự giác các chế độ ngày làm việc của công nhân viên (thời gian bắt đầu và kết thúc ca làm việc, thời gian nghỉ ngơi, sử dụng triệt để thời gian làm việc vào mục đích sản xuất sản phẩm, quỹ thời gian làm việc trong tuần, tháng, năm vv…).

- Về mặt công nghệ: Kỷ luật lao động là sự chấp hành một cách chính xác các quy trình công nghệ các chế độ làm việc của máy móc thiết bị, các quy trình vận hành…

- Về mặt sản xuất: Kỷ luật lao động là việc thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ sản xuất được giao, có ý thức bảo quản giữ gìn máy móc, thiết bị, dụng cụ vật tư …, là sự chấp hành một cách vô điều kiện các chỉ thị, mệnh lệnh về sản xuất, tuân theo các chế độ bảo hộ lao động kỹ thuật an toàn và vệ sinh trong sản xuất.

Kỷ luật lao động có một vai trò rất to lớn trong sản xuất. Bất kỳ một nền sản xuất nào cũng không thể thiếu được kỷ luật lao động. Bởi vì, để đạt được mục đích cuối cùng của sản xuất thì phải thống nhất mọi cố gắng của công nhân, phải tạo ra một trật tự cần thiết và phối hợp hành động của mọi người tham gia vào quá trình sản xuất. Chấp hành tốt kỷ luật lao động sẽ làm cho thời gian lao động hữu ích tăng lên, các quy trình công nghệ được đảm bảo, máy móc thiết bị, vật tư nguyên vật liệu… được sử dụng tốt hơn vào mục đích sản xuất. Tất cả những điều đó làm tăng số lượng và chất lượng sản phẩm.

Có nhiều biện pháp để tăng cường kỷ luật lao động: các biện pháp tác động đến người lao động vi phạm kỷ luật lao động (Giáo dục thuyết phục đối với những người vi phạm nhẹ. Biện pháp hành chính cưỡng bức như: phê bình, cảnh cáo, hạ tầng công tác, hạ cấp bậc kỹ thuật, chuyển sang làm việc khác, buộc thôi việc …). Tổ chức lao động khoa học để nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với công việc mình làm, xoá bỏ các điều kiện có thể dẫn tới vi phạm kỷ luật lao động, hạn chế các vụ vi phạm kỷ luật lao động.

  • Tổ chức thi đua trong doanh nghiệp

Khác với cạnh tranh, không chỉ là thi đua của những người sản xuất riêng lẻ, bị áp bức bóc lột, hoạt động cho lợi ích của những người dân sở hữu riêng, mà là thi đua của những thành viên trong tập thể sản xuất, thoát khỏi sự áp bức bóc lột hoạt động cho lợi ích chung.

Mục đích của thi đua trong doanh nghiệp là nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng , hợp thị hiếu ,nâng cao tính tổ chức và kỷ luật, tiết kiệm các nguồn vật chất và lao động, và cuối cùng là phục vụ cho quyền lợi chung của quần chúng lao động .

Thi đua trong doanh nghiệp có các hình thức sau:

- Thi đua cá nhân: Hình thức thi đua này được tổ chức giữa cá nhân những người lao động. Đây là hình thức được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Thi đua cá nhân có thể được tổ chức trong phạm vi một tổ, một đội sản xuất, một bộ phận sản xuất, một phân xưởng nhưng có khi ở phạm vi một doanh nghiệp.

-Thi đua tập thể: Hình thức thi đua này được được tổ chức giữa các tổ, đội , các bộ phận sản xuất, các phân xưởng phòng ban với nhau. Hình thức thi đua này tạo ra sự gắn bó tinh thần và trách nhiệm để cùng hoàn thành một nhiệm vụ chung.

Nó có tác dụng rất to lớn trong việc xây dựng thái độ lao động mới, xây dựng con người mới, lối sống mới và góp phần đưa năng suất lao động chung của doanh nghiệp tăng lên, hoàn thành kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp, làm cho sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn.

Thi đua trong doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc chính sau đây thì mới đạt được hiệu quả cao:

  • Thứ nhất: Thi đua phải thực hiện tốt quy chế dân chủ ,tiến hành công khai, tức là các tập thể sản xuất đưa ra và thảo luận công khai trước toàn thể cán bộ công nhân viên những kinh nghiệm và phương pháp lao động tốt nhất của mình, kết quả lao động của mình trong thi đua. Lãnh đạo đơn vị phải không ngừng cung cấp thông tin cho cán bộ công nhân viên về quá trình thi đua và kết quả cụ thể của nó.
  • Thứ hai: Phải so sánh kết quả của những người tham gia thi đua. Nguyên tắc này đòi hỏi phải biết và so sánh được thành tích của người này, tập thể này với người khác tập thể khác, giữa thời kỳ này với thời kỳ trước về các chỉ tiêu thi đua.

Do vậy, Khi tiến hành thi đua doanh nghiệp phải có một hệ thống các chỉ tiêu và điều kiện thống nhất cho phép có thể so sánh được kết quả của các cá nhân và tập thể tham gia thi đua về số lượng và chất lượng.

  • Thứ ba: Thi đua phải phổ biến được những kinh nghiệm tiên tiến.
  • Thứ tư: Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa khuyến khích vật chất và khuyến khích tinh thần trong thi đua.

Các nguyên tắc trên có một mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì thế, khi tổ chức thi đua doanh nghiệp phải tuân thủ tất cả các nguyên tắc đó, không được bỏ sót hoặc coi nhẹ một nguyên tắc nào.

Hợp lý hoá các thao tác và phương pháp lao động :

Nhằm tiết kiệm hao phí lao động , với trình tự thực hiện các thao tác sản xuất hợp lý nhất .

Trước hết cần phân tích các thao tác và phương pháp làm việc của bộ phận , đơn vị . Phát hiện những người thực hiện tốt nhất các phương pháp hay thao tác lao động cụ thể , rồi phổ biến kinh nghiệm cho các công nhân cùng nghề . Hoặc có thể so sánh các phương pháp và thao tác lao động của một số công nhân , phát hiện phát hiện những phương pháp và thao tác hợp lý nhất , làm cho chúng trở thành của riêng đối với các công nhân khác .

Lựa chọn hình thức nào là tuỳ thuộc vào mức độ lặp lại , mức phổ thông và mức phức tạp của từng công việc sản xuất nhất định . Vấn đề quan trọng là sau khi phát hiện phương pháp và thao tác làm việc hợp lý , các nhà quản lý cần lập phươg án áp dụng các thao tác và phương pháp đó váo sản xuất của bộ phận , đơn vị .

Sau khi áp dụng cần đánh giá mức độ hợp lý của các thao tác và phương pháp làm việc bằng hệ số sau :

KHL =

Trong đó :

tCNNC : Hao phí thời gian bình quân để thực hiện bước công việc (đơn vị công việc) của nhóm công nhân được nghiên cứu .

TCNTT : Hao phí thời gian bình quân để thực hiện bước công việc của các công nhân tiên tiến

M : Số lần làm lại bước công việc hay khối lượng công việc

n : Số công nhân trong nhóm để nghiên cứu

TCa : Thời gian làm việc của ca .

Hoặc có thể tính :

a. Căn cứ số liệu báo cáo về thực hiện mức sản lượng , tính mức sản lượng bằng hệ số sau :

KHL =

Trong đó :

SLKTH : Số lượng công nhân không đạt mức .

q1 : Độ chênh lệch tương đối giữa trình độ thực hiện mức của những công nhân không đạt mức và trình độ mức thực hiện bình quân của bộ phận , đơn vị .

SLTH : Số lượng công nhân thực hiện mức dưới trình độ bình quân của bộ phận , đơn vị .

q2 : Độ chênh lệch tương đối giữa trình độ thực hiện mức của công nhân thực hiện mức trong bộ phận , đơn vị .

SLCH : Tổng số công nhân trong bộ phận , đơn vị .

HBQ : Hệ số đặc trưng trình độ thực hiện mức bình quân bộ phận, đơn vị

b. Trong trường hợp sản xuất đơn chiếc và hàng loạt nhỏ thì tính theo hệ số :

kHL = 1 -

Trong đó :

∑tch : Tổng thời gian định mức cho khối lượng công việc đã thực hiện

∑tH : Tổng thời gian làm việc thực tế của nhóm công nhân được nghiên cứu

kTHM : Tỷ số giữa % thực hiện mức sản lượng bình quân của các công nhân tiên tiến so với % thực hiện mức sản lượng bình quân của bộ phận, đơn vị

0