Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Hãy phân tích bài thơ Tương tư của ông để...
Đọc thêm: Tương Tư – Nguyễn Bính – Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Hãy phân tích bài thơ Tương tư của ông để làm sáng tỏ điều đó. Trong khi hầu hết các nhà thơ mới – theo nhận xét của Hoài Thanh “đều dội lên đầu dăm bảy nhà-thơ ...
Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Hãy phân tích bài thơ Tương tư của ông để làm sáng tỏ điều đó
BÀILÀM
Trong khi hầu hết các nhà thơ mới – theo nhận xét của Hoài Thanh “đều dội lên đầu dăm bảy nhà-thơ Pháp” thì Nguyền Bính đã tìm một lối đi riêng, trở về với văn hoá dân gian, với những câu hát cửa đình, rặng mồng tơi, bến đò, cây đa, giếng nước… Ông đã trở thành “chủ soái’,’ của trường phái “thơ mới dân gian” gồm Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ,Bàng Bá Lân. Và cũng như các nhà thơ khác, thơ Nguyễn Bính có tiếng hát tình yêu song không mãnh liệt, dữ dội như tình yêu trong thơ Xuân Diệu, không tang thương như thơ tình của Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người bình dân trong ca dao. Điều đó thể hiện rất rõ trong “Tương tư” – bài thơ nổi tiếng của thi sĩ
Tương tư là một trong bốn trạng thái tâm lí của nam nữ yêu nhau nên bài thơ hiển nhiên nằm trong thơ tứ quen thuộc của thơ ca muôn đời. Từ Kinh Thi, người Trung Quốc đã bảo nhau “Nhất nhật bất kiến tam thu hề (Một ngày không gặp nhau dài như ba năm). Theo câu thơ trên thì cách đây hàng nghìn năm, người ta đã phát hiện triệu chứng nhớ nhau của bệnh tương tư. Trước khi Nguyễn Bính viết “Tương tư, ca dao đã có rất nhiều bài diễn tả trạng thái này của con người:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đến “thơ mới”, khi mà tình cảm riêng tự của con người được giải phóng, mối tương tư cũng thành trăm hình vạn trạng. Nói như Lưu Trọng Lư : “Cớ cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cối tình trong lời lát…” và chúng đã hoá thành – “Tương tư’ của Xuân Diệu, Hai sắc hoa ti gôn của TTKH… – những bài thơ nổi tiếng một thời. Như vậy, trước Nguyễn Bính đã có những đỉnh cao, vượt qua không phải là dễ, song “Tương tu” của ông không những sông mà còn sống mãi. Bài thơ là sự rung động rất tinh tế của thi sĩ thơ mới kết hợp nhuẩn nhuyễn với tính dân tộc, và chất dân gian được thể hiện trước hết ở sự lựa chọn nhân vật trữ tình. Đó là một chàng trai chân quê có cảm tình với một cô gái đồng nội. Có lẽ đôi bên mới gặp nhau đâu đó trong một buổi tát nước đêm trăng :
Hôm qua trăng sáng mờ mờ
Em đi tát nước tình cờ gặp anh
Hay trong một dịp đi hát sân đình :
Hỡi cô hát ống tối qua
Đêm nay hát nữa cho ta hát cùng
Nếu chàng mạnh dạn “xăm xăm băng lối” thì có lẽ sẽ không có chuyện nhưng ở đây “một trời chín nhớ mười mong một người”. Cái “tôi” trữ tình của chàng trai là cái “tôi” đa tình nhưng không bạo dạn như trong thơ Xuân Diệu “Phải nói yêu trăm bản đến nghìn lần”, mà nhút nhát như cái chất vốn có của những chàng trai quê.
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người yếm thắm dải diều thắt lưng
Chính cái “tôi” đa tình nhưng nhút nhát đã dẫn đến một nghịch lí. Cái “tôi” được đạt trong tâm cảnh nhớ mong, xa xôi cách trở trong lúc không có một khoảng cách nào. Nguyễn Bính rất giỏi diễn tả sự xa cách nhớ thương, có khi đó chỉ là ‘một giậu mồng tơi” và lần này là cách một đầu đình.
Thôn Ðoài ngồi nhớ thôn Ðông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
“Thôn Đoài”, “Thôn Đông” là những từ chỉ địa danh làng xóm quen thuộc trong ca dao, dân ca, khác với những từ bóng bẩy của thơ mới, đồng thời, nó được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ khiến cho bài thơ có dáng dấp đồng quê mộc mạc. ”Một người chín nhớ mười thương một người”, câu thơ chứa đựng một cấu trúc ngôn ngữ nghệ thuật độc đáo. “Một người” ở đầu câu, “một người ở cuối câu thơ, còn ở giữa là một thành ngữ dân gian “chín nhớ mười mong”. Cấu trúc ấy khiến, ta liên tưởng một bài ca :
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Câu thơ của Nguyễn Bính gợi lên hình ảnh một người ở đầu này, một người ở đầu kia, song cái ngáng trở chính là sự nhút nhát, rụt rè chân quê. Chàng trai núp vào “thôn Đoài” như các chàng trai trong ca dao núp vào “mận”và “đào”. “Bây giờ mận mới hỏi đào: Vườn hồng đã có ai vào hay chưa”. Song với cách nói bóng gió, chàng trai đã ngắm bày tỏ với cô gái nỗi nhớ nhung xa cách đang diễn ra trong lòng chàng và niềm mơ ảo hạnh phúc được gìn người mình yêu. “Thôn Đoài”, “thôn Đông” là khoảng cách gần đủ để quen biết mà đủ xa mà để-nhớ thương. Qua đây, chàng trai đã ý nhị giới thiệu cho cô gái cũng chân quê như chàng, xứng đôi vừa lứa đủ để chàng bắc nhịp cầu “chín nhớ mười mong”. Lời nói được hoán cải từ thành ngữ”chín nhớ mười thương” mà chàng trai dùng để bộc lộ nỗi riêng tư của mình, diễn tả sự xa cách trong tình yêu, yêu người nhưng không được gặp, tình yêu chưa được đền đáp. Thậm chí người ta còn chưa biết mặt nên sinh ra bệnh tương tư, bệnh nhớ. Cái nhớ của một người dành cho một người. Phải chăng đó là bi kịch trong tình yêu ? Chàng trai đành thổ lộ lòng mình với người trong mộng, với cô gái trong tưởng tượng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Cách đây 200 năm, Kim Trọng tương tư Thuý Kiều và bày tỏ tâm trạng nhớ thương ”Thầm thương trộm nhớ bấy lâu đã chồn”. Còn lời của chàng trai trong bài thơ không phải là lời thể hiện thế giới nhớ nhung mà là lời than, lời kể lể và lạ lùng nhất mà lời trách móc như những câu hỏi xoáy vào lòng người : Cớ sao ? Có xa xôi máy ? Bao giờ mới gặp ? Điều ấy không hề thấy trong ca dao và trong văn chương bác học vì nó trái với quy luật. Từ xưa đến nay, trong chuyện tình cảm, người con trai thường phải đến với người con gái. Đằng này cô con gái trong bài thơ đâu biết có người yêu mình thế mà chàng lại than lại trách. Nhưng chính đấy là chỗ hay của bài thơ. Lời than của chàng trai bề ngoài thì vô lí nhưng đọc lên ai cũng cám thông vì đó là sự thế hiện cái “tôi” nhút nhát, chân quê và tình cảm sâu đậm của chàng qua không gian và thời gian mà rõ nhất là sự thay đổi vể không gian. Tất cả những gì thuộc về thế giới của người yêu đối với chàng đều rất gần gũi, gần gũi đêu mức không còn khoảng cách.
Hai thôn chung lại một làng
Đúng là khi đang yêu, người ta muốn hoà nhập là một. Tản Đà đã từng có câu: “Mình với ta tuy hai mà một. Ta với mình tuy một mà hai’. Mong ước hoà nhập nhưng không thể vì vẫn còn “bên ấy”, “ben này”, vẫn còn ngăn cách. Ngăn cách nhau có một đầu đình mà không sang được thì đúng là không gian không xa mà tình ý lại xa. Tinh cảm của chàng trai dành cho cô gái sâu đậm, nó còn được thể hiện qua thời gian.
Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh cổ đọng “traii – can” và nỗi nhớ thướng không nguôi.
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng,
Thôn Ðoài thì nhớ thôn Ðông,
Cau thôn Ðoài nhớ trầu không thôn nào
Trong văn chương Việt Nam, trầu cau là biếu tượng cho tình yêu và hôn nhân. Bốn câu thơ là niềm mong ước trong sáng và chân thật của người đang yêu, chân thật như chính tình cảm mà chàng trai đã dành cho có gái. Song ước mơ ấy cũng chỉ nằm trong mộng tường mà thôi. Từ nỗi nhớ của một người dành cho một người ở đầu bài, đến cuối bai đã chở thành vùng không gian này nhớ vùng không gian kia, trong nỗi nhớ thắp lên ước mơ muôn thuở của tình yêu “Thân Đoài ngồi nhớ thôn Đông’…
Không ồn ào mà dịu êm, không dữ dội mà lặng lẽ, không mãnh liệt mà chân thành mộc mạc như tình yêu cửa người bình dân trong ca dao. Đó chính là tình yêu trong thơ Nguyễn Bính, sâu lắng và không kém phần da diết, đã dệt nên khúc “Tương tư” cho muôn đời :
Tương tư thức mấy đêm rồi
Hỏi ai ai hỏi cho người biết cho