Tình yêu quê hương đất nước của Ông Hai trong truyện ngắn Làng
() – của nhà văn Kim Lân.( Bài làm văn đạt điểm tốt tỉnh Hưng Yên). Đề bài: Tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật Ông Hai. Bài làm Nhà văn Nam Cao, tác giả của cuốn” Đời Thừa” từng trăn trở” Văn chương không cần những người thơ khéo ...
() – của nhà văn Kim Lân.( Bài làm văn đạt điểm tốt tỉnh Hưng Yên).
Đề bài: Tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật Ông Hai.
Bài làm
Nhà văn Nam Cao, tác giả của cuốn” Đời Thừa” từng trăn trở” Văn chương không cần những người thơ khéo tay làm theo vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khỏi những nguồn chưa ai khỏi và nói những gì chưa ai có” Nếu lấy nhận định ấy làm thước đo thi tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân hoàn toàn xứng đáng là một tác phẩm văn chương chân chính với hình tượng nhân vật ông nông dân thời kỳ kháng chiến chống pháp hoàn toàn mới lạ. Đọc Làng, chúng ta ấn tượng bởi tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật ông Hai.
Làng là truyện ngắn của Kim Lân, một cái tên không hề xa lạ trong làng văn học Việt Nam thời kỳ đầu. Trích đoạn nói riêng và tác phẩm nói chung được viết năm 1948 trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Đoạn trích ca ngợi tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân qua hai tình huống chính:khi ông hai nghe tin làng theo giặc và khi ông hai nghe tin cải chính. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm được thể hiện rõ ràng qua hình tượng nhân vật ông Hai, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Qua đoạn trích, tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật ông hai được bộc lộ rõ ràng, gây âm vang trong lòng người đọc.
Trước hết, tình yêu quê hương, đất nước của nhân vật ông hai được thể hiện trước khi ông nghe tin dữ. Ông Hai là người nông dân ở làng chợ dầu. Nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh nên phải tản cư đi nơi khác. Trong lòng ông rất muốn ở lại làng chiến đấu cùng anh em du kích nhưng vì hoàn cảnh neo người, lại được an ủi “ Tản cư cũng là kháng chiến nên ông đành lên vùng đất thắng để tản cư. Ở đó ông hai không lúc nào không nhớ về làng. Ông khoe về làng với bác thứ đến mức nhàn tai cốt chỉ để vơi đi nỗi nhớ làng. Ông khoe về kháng chiến của làng, buổi tập quân sự, sự sầm uất của làng… Trong lời kể hiện hữu tình yêu làng. Là nét tâm lý thường gặp ông hai không chỉ thế, ông còn hay ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức, độc lỏm bao nhiêu tin thắng trận “ Lòng ông lão cứ múa cả lên, Vui quá!” Đây chính là nét mới của người nông dân sau cách mạng được phản ánh trong văn học, bày tỏ tình yêu nước yêu làng của ông.
Không chỉ vậy, tình yêu làng, yêu nước của ông hai dược bộc lộ rõ qua lúc khi nghe tin dữ. Đầu tiên, tình cảm ấy được thể hiện sâu sắc khi mới nghe tin dữ. Đang trong đỉnh cao của niềm vui, ông hai rơi xuống vực thẳm của sự tuyệt vọng. Nghe người đàn bà tản cư lên nhắc đến tên làng, ông hai vội hỏi mong nghe được itn hay nào ngờ nhận được tin như sét đánh ngang tai “ Cả làng chúng nó việt gian theo tây chứ còn giết gì nữa” Tác giả tập trung miêu tả tâm trạng ông hai lúc đó “ Cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân” “ Tưởng như không thở được” Tự trấn an mình. Ông Hai hỏi lại như như chưa tin hẳn” Những lời người ta rõ rằng quá lại có cả thằng chánh bệu khiến ông không thể không tin. Ông Hai rơi xuống đấy cùng của sự tuyệt vọng, vội đánh trông lảng, chạy trốn như sợ bị phát hiện. “ Hà nắng gớm về nào” Yêu là yêu hết mình, tin là tin sâu sắc. Đau là đâu tận cùng. Đó chính là tình cảm của ông dành cho làng bấy lâu nay bị sụp đổ vì tin làng theo giặc.
Khi về đến nhà, tình cảm ấy được nổi bật. Ông khóc thương lũ con là người làng Việt gian. Những câu nói của mấy người tản cư vẫn vang vẳng trọng ông “ Cái giống việt gina bán nước phải cho mỗi đứa một nhất, ông chửi rửa :” Chúng may ăn miếng cơm, miếng cháo gì vào mồm mà để làm giống việt igna bán nước đã nhục nhã thế này. Ngơ ngơ, ông liền điểm từng người những vẫn kiên quyết. Không có lửa làm sao có khói “ Câu hỏi tu từ, độc thoại nọi tâm nhấn mạnh tâm trạng nặng nề, tủi khổ của ông Hai.
Khi nói chuyện với vợ tình cảm ấy tiếp tục hòa quyện, đấu tranh. Cuộc hội thoại đặb biệt chỉ có ba lượt trao và hai lượt trả. Ông hai trửa lời gì, gắt lên, biết rồi. nhấn mạnh tâm trạng nặng nề, không muốn nói chuyện của ông. Ông Hai sợ mụ chủ nhà nghe thấy. Tiếng gì thế? “ Tiếng mụ chủ” “ Mụ làm cái gì mà ồn ào thế? “ Bao câu hỏi tu từ nhán mạnh tâm lý hỗn loạn của ông Hai nghệ thuật độc thoại nội tâm được vận dụng triệt để.
Mấy ngày sau,ở ông hai người ta vẫn nhìn thấy tình yêu làng, yêu nước cháy bỏng trong ông. Suốt mấy ngày ông chẳng dám đi đâu, quanh quẩn ở nhà. Khi người ta túm năm tụm ba, nhắc đến “ Tây, việt gian, cam nhông…” là ông lại lủi vào góc nhà, ním thít” Chắc lại chuyện ấy rồi” Bao nhiêu nỗi dằn vặt dồn hết trong ông. Tâm lý ông hai giờ đây bị giam vào vòng sợ hãi. Tận cùng của sự tuyệt vọng, tủi hổ. Chính nỗi sợ hãi đã toát lên tình yêu nước trong ông. Bởi vậy không hề là việt gian và chính ông sợ bản thân mang tiếng việt gian. Thật đáng thương, đáng trân trọng!
Chính tình yêu nước chiến thắng và hòa quyện cùng tình yêu làng được thăng hoa, nở hoa nơi trang giấy khi bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi. Khi bà hai ra chợ gặp mụ chủ. Mụ có ý đuổi khéo gia đình ông đi vì người làng không chứa việt gian. Ông Hai từ lo lắng, tửi hổ chuyển sang sợ hãi, thoảng thốt. Ông lo cho gia đình mình rồi sẽ ở đâu, lấy gì làm kế sênh nhai, còn bao nhiêu người làng nữa.Câu hỏi tu từ như những cơn sóng lòng dồn tới tấp kết ngữ độc thoại nổi bật cuộc đời đấu tranh nội tâm. Rồi ông chợt nghĩ “ Hay là quay về làng” Bảo ý nghĩ đen tối chợi hiện ra. Ông gặt phắt đi” Làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù” Đây chính là câu nói bầy tỏ rõ quan điểm của ông hai” Tình yêu nước chiến thắng, thiêng liêng bao trùm bao tình cảm khác. Bắt buộc tình yêu phải hi sinh cho nhỏ. Đây chính là câu nói của I Ri a E ren bua “ Tình yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên tình yêu tổ quốc” Câu nói chính là kết itnhf của hai tình cảm đó.
Hơn nữa, tình yêu làng, đất nước trong lúc trò chuyện với cụ Húc cũng thể hiện phần nào. Lời đối thoại như độc thoại, ông nói với ông như tự giặc bầy lòng mình vì cụ húc ngay thơ giãi bày làng con ở đâu, nhà con ở làng chợ dầu”… Chính những câu nói ngây thơ của cu út đã nắm chặt lấy trái tim của ông Hai. Ông muốn con ghi nhơ rõ nguồn gốc của mình : Làng chợ dầu nhưng hiện tại nó không xứng đáng với tình cảm của ông Hai.Khiến tim người đọc đau nhói . Những câu đối thoại, của nhân vật. Qua tình huống đó đã bộc lộ tình yêu làng, yêu nước của ông Hai.
Cuối cùng, tình yêu làng, yêu nước hòa làm một khi ông hai nghe tin cải chính. Ông Hai theo một người đàn ông nào đó đi rất vội, chiều tối mới về. Lạ thay, gương mặt buồn thui rạng rỡ hẳn lên, ông lại còn khao con bánh rán, đôi mắt hấp háy. Vừa về đến nhà, ông đã khoe với mọi người đầu tiên là bác thứ ;” Bác thứ đâu rồi” “ Nhà tôi bị tây đốt” Đốt nhẫn” ông luôn chân luôn tay như muốn nói với tất cả mọi người rằng Làng chợ dầu không theo giặc. tin được cải chính, ông khoe cả nhà ông bị tây đốt. Ông hai coi trọng trọng danh dự hơn vật chất. Đây chính là lòng tự trọng của ông Hai. Trong cái cháy tàn, cháy rụi của nhà ông có sự hồi sinh của làng chợ dầu. Ông mừng vui đến mức xưng là em tính cách ông trở nên ngộ nghĩnh khi dùng từ sai sự mục đích. Tác giả miêu tả tâm lý nhân vật vô cùng khéo léo qua ngôn ngữ đối thoại, miêu tả hành động cử chỉ để làm nổi bật tình yêu quê hương, đất nước và nhân vật ông hai.
Có thể nói , để làm nổi bật tình yêu quê hương đất nước của nhân vật ông hai. Kim Lâm đã đạt thành công trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Về nghệ thuật, đoạn trích kết hợp nhiều nhiều phương thức biểu đạt, tự sự, miêu tả…. Và tình huống truyện bất ngờ, gay cấn thử thách nhân vật. Ngoài ra, ngôi kể thứ ba giúp cho mạnh văn linh hoạt, bao quát nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật đặc sắc qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm và ngôn ngữ đối thoại. Gấp lại trang truyện Làng tác phẩm neo đậu trong lòng ta những vang âm về tình yêu quê hương đất nước. ta thây được ngòi bút tiến bộ của nhà văn kim liên phát hiện ra những nét mới của người nông dân lấy cảm hứng đó mà từ ngữ nở hoa nơi trang giấy.
>>>Mời các bạn xem thêm: