Thuyết minh về một loài động vật, vật nuôi hay một loài cây ở quê em (cây đa )
Thuyết minh về một loài động vật, vật nuôi hay một loài cây ở quê em (cây đa ) Cây đa bề thế, bệ vệ, to cao vời vợi. Các cành cao thả dài xuống đất rồi lại sinh ra rễ mẹ đẻ rễ con, bền vững và đầy sức sống. ...
Thuyết minh về một loài động vật, vật nuôi hay một loài cây ở quê em (cây đa )
Cây đa bề thế, bệ vệ, to cao vời vợi. Các cành cao thả dài xuống đất rồi lại sinh ra rễ mẹ đẻ rễ con, bền vững và đầy sức sống.
ĐẺ 13: Thuyết minh về một loài động vật, vật nuôi hay một loài cây ở quê em( cây đa)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI
* Nội dung trọng tâm: Người học cần chú Ý những ý chính sau:
- Trước hết, em cần chọn cho mình một loài cây gần gũi với em (cây dừa. cây phượng, cây bàng, cây me, cây đa, cây bưởi,...). Dù em chọn loài cây nào đi chăng nữa thì cũng phải nhớ nguyên tắc là: đối tượng thuyết minh đó, bản thân em phải có thật nhiều kiến thức về nó.
Khi thuyết minh về một loài cây; em cần chú ý các điếm sau đây:
+ Nguồn gốc, xuất xứ loài cây ấy?
+ Cấu tạo của loài cây ấy (hình dáng bên ngoài, thân, cành, rễ, lá, hoa, quả, hương thơm, màu sắc...)
+ Cách trồng như the nào?
+ Đó là loài cây như thế nào? (ưa nắng, chịu gió mưa được,...)
+ Cách chăm sóc loài cây ấy ra sao?
+ Giá trị kinh tế? (thương mại, buôn bán...)
+ Giá trị tinh thần? (niềm vui trong cuộc sống của con người)
+ Cảm nghĩ của em về loài cây đó?
DÀN Ý CHI TIÉT
I.MỞ BÀI
Giới thiệu: Cùng với những hình ảnh làng quê, giếng nước, sân đình đó là hình ánh của cây đa mộc mạc, thân thương.
II. THÂN BÀI
- Cấu tạo
Cây đa bề thế, bệ vệ, to cao vời vợi. Các cành cao thả dài xuống đất rồi lại sinh ra rễ mẹ đẻ rễ con, bền vững và đầy sức sống.
- ích lợi
- Những đêm mưa to gió lớn, cây đa đã chổng chọi lại với gió bão, dũng cảm phi thường.
- Cây đa xòe tán xanh và rộng ra để che nắng, che mưa cho mọi người. Nó che chở cho mọi người. Nó là cây mẹ, làm cho mọi người yên tâm với nụ cười, nước mắt, hướng về vĩnh cửu.
- Trước hết đây là nơi nghỉ mát lúc trưa hè của những thợ đồng làm việc ở những khu ruộng quanh làng. Bóng mát cây đa lan toả rất xa. thợ đồng kéo nhau đến gốc cây ăn bữa trưa rồi nằm nghỉ. Những thợ đồng cày cấy, tát nước hoặc vãi phân ở những khu ruộng xa làng đã có bóng mát cua những cây đa giữa cánh đồng.
- Cây đa cũng là nơi dừng chân nghỉ mát của những khách bộ hành đi qua làng. Đôi khi nơi đây có một quán nước để khách giải khát với bát nước chè xanh hoặc bát nước vối.
- Nơi đây với bóng mát buổi trưa, với khí thoáng buổi chiều thường là nơi tụ tập họp của một số dân trong làng gặp gỡ nhau sau một ngày công việc mệt nhọc để trao đổi cùng nhau một đôi câu chuyện tâm tình, hoặc có khi chỉ là một câu chuyện gẫu.
- Cây đa đầu làng còn là một nơi thờ tự đối với dân làng. Thân cây đa, ma cây đề, tục ngữ vẫn hằng nói vậy. Người ta thờ Đại thụ linh thần ở dưới gốc đa.
- Cây đa nhiều lá xum xuê, lá khô rụng xuống đã cung ứng đồ đun nấu cho một số dân nghèo trong làng. Các em bé nghèo thường rủ nhau ra nhặt lá đa, cùng những cành khô của cây đa rơi xuống về làm đồ đun bếp.
- Cây đa có quả đa, quả đa nhỏ hơn hạt nhãn, lúc chín màu vàng thường rụng xuống đất. Mùa quà đa chín, chim chóc rủ nhau tới ăn quả, và các em bé quê cũng rủ nhau ăn chơi quả đa. Quả đa ăn chơi thao thảo ngọt, người lớn không ăn nhưng trẻ em thì chúng không chê!
- Và cây đa cùng là nơi cung cấp chất nhuộm vải cho dàn làngệ
- Người miền Bẳc miền Trung thường mặc quần áo nâu, và vải trắng muốn nhuộm nâu, người ta dùng cù nâu, nhung vì cũ nâu hiếm và đắt nên người ta róc vỏ cây đa về nấu lên để nhuộm. Vải nhuộm nấu bằng vỏ đa rồi đem ngả lầm, mặc thật bền tuyệt.
3. ý nghĩa
- Cây đa tượng trưng cho sự phồn vinh và tuổi thọ. Biểu tượng của những người cao tuổi toàn thế giới được thể hiện qua hình ảnh một cây đa cô thụ.
- - Cây đa là hình ảnh cao đẹp. Là cả một bức tranh hoành tráng gắn bó với mái đình, chùa, miếu, giếng thơi v.v... dựng nên cả một thế giới tinh thần bền vững cho mọi người từ khi còn trẻ thơ cho đến lúc về già.Cây đa làm điểm ghi nhớ, điểm đánh dấu nổi bật, đại diện cho một nơi chốn đáng được lưu ý. Nó là người chứng kiến những thăng trầm của các lớp người Trong tín ngưỡng dân gian, có tục thờ cây đa. Bên gốc đa hoặc cạnh cây đa thường có một cái miếu nhỏ đặt bát hương, những chiếc bình vôi để luồng khói cho thần cây đa: “thần cây đa, ma cây gạo”...
- Cây đa tượng trưng cho vẻ đẹp quẻ hương. Nó góp thêm màu sắc, âm thanh cho làng quê êm đềm.
III.KẾT BÀI
Cây đa là một nhan sắc. là biểu tượng, là hình ảnh sinh động của làng quê. Nó góp phần làm cho văn hóa làng xà thêm đậm đà, lấp lánh.
BÀI VIỂT THAM KHẢO BÀI VIẾT 1
Xung quanh đền bà làng Ỷ Lan, Tuyên Quang có mấy cây đa khổng lồ nổi cộm lên như những ngôi nhà lầu nối tiếp nhau. Chúng đan két lại với nhau bằng những chùm rễ phụ bạt ngàn, bao la. Chúng đu đưa trước gió như những chiếc võng treo thờ ở các đền Mẫu, phù Mẫu. Đây là hình tượng gợi ý cho các bà mẹ thời xa xưa làm ra lưới bắt cá, tết vòng và làm nghề dệt vải. Thạch Sanh ngày xưa có một túp lều bên cạnh những cây đa này. Ông Bụt nhân từ cũng từ những cây đa này mà ra.
Cây đa bề thế, bệ vệ, to cao vời vợi. Các cành cao thả dài xuống đất rồi lại sinh ra rễ mẹ đẻ rễ con, bền vừng và đầy sức sống. Cây đa yêu đời, đẹp đẽ. Nó tượng trưng cho sự phồn vinh và tuổi thọ. Biểu tượng của những người cao tuổi toàn thế giới được thể hiện qua hình ảnh một cây đa cổ thụ. Cây đa trần trụi với vẻ nguyên thủy, có những điều ân chứa, có những điều rối rắm và huyền ảo.Nó tượng trưng
cho sự trống trải, cho sức mạnh vật lý và đạo lý. Nó thu hút vào mình những tia sét, điện tử. Những đêm mưa to gió lớn, cây đa đã chống chọi lại với gió bão, dũng cảm phi thường và sinh ra nhiều câu chuyện thú vị. Cây đa xòe tán xanh và rộng ra để che nắng, che mưa cho mọi người. Nó che chở cho mọi người. Nó là cây mẹ, làm cho mọi người yên tâm với nụ cười, nước mắt, hướng về vĩnh cửu.
Người ta gọi cây đa làng, cây đa huyện, cây đa bãi, cây đa bến sông, cây đa vòm, cày đa chợ...cây đa làm điểm ghi nhớ, điểm đánh dấu nổi bật, đại diện cho một nơi chốn đáng được lưu ý. Nó là người chứng kiến những thăng trầm của cả lớp người. Trong tín ngưởng dân gian, có tục thờ cây da. Bên gốc đa hoặc cạnh cây đa thường có một cái miếu nhỏ đặt bát hương, những chiếc bình vôi để hương khói cho thần cây đa: “thân cây đa, ma cây gạo”...
Chàng và nàng hẹn gặp nhau ở bên cây đa. Các cặp trai gái gặp gỡ, hẹn hò, thề thốt với nhau ở bên cây đa. Họ bảo: “Có cày đa biết mối tinh đôi ta". Cây đa tha thiết và thiêng liêng: “Trăm năm, đành lỡ hẹn hò”...Cây đa bến cũ, là thành viên của xóm làng: “Giếng nước, cây đa tiễn chàng trai ra trận’.
Cây đa là hình ảnh cao đẹp. Là ca một bức tranh hoành tráng gắn bó với mái đình, chùa, miếu, giếng thơi.... dựng nên cả một thế giới tinh thần bền vững cho mọi người từ khi còn trẻ thơ cho đến lúc về già. Cây đa tượng trưng cho vẻ đẹp quê hương Nó góp thêm màu sắc, âm thanh cho làng quê êm đềm. Nó vẫy gọi những đàn chim nhiều màu đèn hội tụ, làm tổ, rỉa quả đa chín. Và thỉnh thoảng vào những buổi đẹp trời, ở các cành đa nhằng nhịt, tung ra những trận mưa chim.
Người ta nhìn lên mặt trăng huyền ảo, nhìn ngay thấy mấy nét đậm nhạt mà nghĩ ngay ở nơi đó có hình ảnh cây đa và chú cuội. Thế rồi cái huyền thoại ấy ăn sâu vào lòng người: “ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ”.
Ngày xưa, ở trên cây đa thường có những tờ cáo thị, yết thị. Thời cách mạng xuất hiện những tờ hiệu triệu đồng bào sản xuất, chiến đấu, đoàn kết... người quan họ có bài “Lý cây đa” nổi tiếng. Đó là một bài hát rất hay nói về anh trai làng đi đến đầu gốc đa, nhìn thấy cô gái thắt lưng xanh mà đem lòng yêu mến...
Sau một buôi làm ăn vất vả, chiều đến mát mẻ, người ta thường tụ tập nhau lại bên gốc đa. Họ uống chè vối, hút thuốc lào rồi kể chuyện với nhau, bàn bạc và bình luận về cuộc sống.Đôi khi, bên cái quán nước nhỏ cạnh gốc cây đa có đôi vợ chồng xẩm kéo nhị, hát lên bài “Anh khoá" làm bâng khuâng ca đám đông người nghe.
Nhà nghiên cứu người Pháp là M.Colami đã viết hẳn một cuốn sách về cây đa ôm tảng đá tại làng Thanh Khê, huyện Gio Linh. Cây đa Tân Trào là hình ảnh quê hương cách mạng mùa thu không bao giờ phai mờ trong đầu óc người cách mạng Việt Nam qua câu thơ “Mái đinh Hồng Thái, cây đa Tân Trào”.
Người Hà Nội thường hay nhắc đến những cây đa cổ thụ nổi tiếng của họ: cây đa nhà Bò. Xưa kia ở ngay cạnh nó là nhà đúc tiền. Bây giờ có một nhà hộ sinh. Vào thời chống Pháp có những trận chiến đấu đẫm máu và cây đa cũng đã nhận vào mình nhiều viên đạn. Cây đa cửa quyền ở phố Hàng Bông có những chuyện kể quái dị kiểu Liêu trai chí dị. Kể rằng cứ chập tối thỉnh thoảng có những cô gái rất đẹp người lên những chiếc xe tay có người kéo, đi thăm các cây đa quanh vùng Hà Nội rồi biến mất lúc nào không biết. Ngày hôm sau người phu xe sẽ rất đắt khách. Cây đa chùa Hai Bà ở Đồng Nhân phải cần đến hơn 10 người dang sải tay ra ôm mới xuể.
Cây đa Vân Hồ có hàng trăm rễ rủ xuống đất như một chiếc mành lớn. Đeo trên mình hàng trăm chiếc bình vôi cổ kính và những bát hương lập lòe ánh lửa và khói Ở quanh nhà Bác cổ nay là Viện Bảo tàng lịch sử có sáu cây đa lớn. Tại mé gần Hồ Tây, quãng đầu Thuỵ Khuê có cây đa gọi là cây đa cô Son bên cạnh miếu cô Son. Đó là nơi xưa anh khóa Hồng và cô Son gặp nhau và chia tay nhau. Cây đa chùa bà Đanh nguy nga như một lâu đài. Tại phố Quán Thánh có ba cây đa chụm lại gần quán cà phê gọi là quán cà phê cây đa Quán Thánh. Người ta cũng thường nhắc đến cây đa làng Lủ, cây đa sông Tô Lịch, cây đa Hàng Gai....
Những vị cao tuổi, có học hành, đức độ, được mọi người tôn kính gọi là các vị cây đa cây đề. Lại có cả những cụm từ cửa miệng như: Cúng cháo lá đa, trạch đẻ ngọn đa...
Câ y đa là một nhan sắc, là biểu tượng, là hình ánh sinh động của làng quê. Nó góp phần cho văn hoá làng xã thêm đậm đà, lấp lánh.
(Theo Lý Khắc Cung, Nghìn khuôn mặt Thăng Long, 2010)